5 năm triển khai giảm nghèo bền vững (2011-2015): Thay đổi những miền quê
Sau 5 năm triển khai chính sách giảm nghèo bền vững, nhiều vùng quê nghèo trong tỉnh đã thay đổi diện mạo. Quan trọng hơn, người dân ở những địa phương ấy đã thay đổi cách thức làm ăn, mạnh dạn đầu tư, tích lũy, nâng cao đời sống của gia đình mình và quê hương.
Vừa qua, ngày 15.10, với sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Chính phủ đã tổ chức Hội nghị trực tuyến về công tác giảm nghèo toàn quốc. Đây cũng là dịp nhìn lại kết quả giảm nghèo trong tỉnh 5 năm qua và định hướng giai đoạn 2016-2020.
Khi được hỏi đâu là thay đổi rõ nét trong đời sống người nghèo vùng cao, miền núi, đại diện chính quyền địa phương đều cho rằng trước hết là người nghèo biết cách làm ăn, mạnh dạn đầu tư cho trồng trọt, chăn nuôi. Phần lớn các gia đình người đồng bào dân tộc thiểu số đang sở hữu “của để dành” là những đàn bò, dê, nhiều hecta keo lai. Những tài sản này hầu hết đều tích lũy từ kết quả các chương trình hỗ trợ người nghèo về cây, con giống hoặc do chính người nghèo vay vốn với lãi suất ưu đãi để đầu tư sản xuất.
Đời sống tinh thần của người dân làng Kon Trú được nâng lên khi sử dụng điện lưới quốc gia.
Thăm gia đình ông Trần Văn Phú (50 tuổi, ở làng Hiệp Hà, thị trấn Vân Canh, huyện Vân Canh - người dân tộc Chăm), chúng tôi thấy mừng cho một hộ gia đình từng rơi vào cảnh nghèo khó do cờ bạc, say xỉn. Thức tỉnh, thay đổi lối sống, ông Phú được địa phương, tổ tiết kiệm vay vốn của làng tạo điều kiện, bảo lãnh để vay vốn sản xuất. Năm 2013, với 30 triệu đồng vay được theo chương trình ưu đãi dành cho hộ nghèo, ông Phú trồng khoảng 7.000 gốc keo lai trên đất rẫy. Cùng với đó, ông còn trồng mì, chịu khó đi làm thuê để lấy ngắn nuôi dài.
Ông Phú tâm sự, của cải vẫn còn nằm trên mấy rẫy keo chứ chưa mang được về nhà. Nhưng cả nhà tôi ai cũng rất mừng vì được Nhà nước quan tâm, hỗ trợ cho vốn làm ăn. Quyết tâm không để mang tiếng xấu, tôi cũng cố gắng dành dụm trả nợ dần. Đến nay, tôi đã trả được phân nửa số tiền vay. Điều tôi lấy làm mừng nhất là khi từ bỏ thói xấu như nhậu nhẹt, cờ bạc, lo làm ăn, tôi nhận ra, nhà tôi ai cũng vui. Nếu mình chịu khó lao động thì sẽ có của ăn, của để như nhiều gia đình khác.
Giai đoạn 2011-2015, đã có gần 148 ngàn lượt hộ nghèo, cận nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và đối tượng chính sách vay vốn ưu đãi với tổng vốn vay hơn 2.800 tỉ đồng; 648.650 lượt người nghèo được cấp thẻ BHYT; 110.365 học sinh là con em hộ nghèo, đồng bào thiểu số được miễn giảm học phí. Thực hiện hỗ trợ nhà ở cho 2.964 hộ nghèo với tổng kinh phí hơn 83,3 tỉ đồng. Hơn 15.000 lượt hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số được hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, được nhận khoán chăm sóc, bảo vệ rừng để phát triển sản xuất.
Tổng nguồn vốn huy động cho Chương trình giảm nghèo bền vững hơn 7.600 tỉ đồng.
Không chỉ góp phần làm thay đổi nhận thức của người dân trong việc xóa đói, giảm nghèo, khơi dậy ý thức tự vươn lên, trong 5 năm qua, Chương trình giảm nghèo bền vững còn giúp người dân cách thức giảm nghèo thông qua 34 mô hình, dự án giảm nghèo. Trong đó, có 5 mô hình trồng trọt (mì, mía, đậu phụng, keo lai cấy mô), 24 mô hình chăn nuôi (cá, thỏ sinh sản, dông trên cát, gà an toàn sinh học, gà thả đồi, heo rừng, heo nái ngoại sinh sản, bò vỗ béo), 5 mô hình tổ liên kết (tổ liên kết phụ nữ nghèo làm bánh tráng gạo, may gia công, làm nước mắm, dịch vụ nấu đám tiệc). Có 625 hộ nghèo, cận nghèo trực tiếp tham gia mô hình và có những thay đổi rõ rệt. Qua đó, đã góp phần tăng thu nhập của các hộ gia đình từ mức thu nhập trung bình khoảng 400 ngàn đồng/người/tháng lên khoảng 625 ngàn đồng/người/tháng trong năm đầu tham gia mô hình. Đến năm 2015, thu nhập của hộ nghèo đã tăng bình quân khoảng 30-35%, giúp 141 hộ thoát nghèo.
Diện mạo vùng đặc biệt khó khăn cũng thay đổi nhờ những chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng. 26 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển, hải đảo đã đưa vào sử dụng 228 công trình. 3 huyện miền núi Vân Canh, Vĩnh Thạnh, An Lão cũng có 117 công trình điện, đường, trường, trạm, thủy lợi được đầu tư.
Đi cùng với sự khởi sắc của vùng đặc biệt khó khăn là niềm vui của những hộ dân hưởng lợi. Chúng tôi nhớ mãi lời của Trưởng làng Kon Trú (xã Vĩnh Kim, huyện Vĩnh Thạnh) Đinh Văn Lơi trong ngày dân làng mừng điện lưới quốc gia về tới buôn làng: “Cuộc sống nay đổi khác rồi! Có điện, đêm của buôn làng rực rỡ hơn. Đời sống văn hóa, giải trí của bà con cũng phong phú hơn”.
NGUYỄN MUỘI
Hạn chế trong thực hiện công tác giảm nghèo ở chỗ tỉ lệ hộ nghèo tại một số xã miền núi vẫn còn cao, số hộ tái nghèo sau từng năm chiếm tỉ lệ tương đối cao so với hộ thoát nghèo. Tốc độ giảm nghèo ngay trong các xã của một huyện hoặc giữa các huyện, vùng có điều kiện giống nhau không đồng đều.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước chưa cao. Chất lượng xây dựng các công trình đường giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, chợ... còn thấp. Một số công trình đầu tư không đúng chỗ, chưa phát huy hết tác dụng, dẫn đến tình trạng xuống cấp nhanh. Riêng địa bàn các xã đặc biệt khó khăn thường nằm ở vùng sâu, vùng xa, cách trở gây khó khăn cho công tác quản lý các dự án, công trình giảm nghèo.
Tập quán sinh sống, trình độ dân trí của bà con đồng bào dân tộc còn hạn chế vẫn là trở ngại cho công tác giảm nghèo.