Kỷ niệm 55 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển (23.10.1961-23.10.2016):
Chuyến đi cảm tử
Bị kẹp giữa hai tàu khu trục của Mỹ, cán bộ chiến sĩ trên tàu vẫn bình thản lướt sóng. Thuyền trưởng quyết định: Nếu bị lộ, tàu địch áp sát mạn, sẽ nổ mìn hủy tàu hi sinh chứ nhất định không rơi vào tay giặc. Chuyến đi cảm tử này được trung úy máy trưởng tàu không số mang bí số 100 Võ Ngọc Rôm (82 tuổi, hiện ở 120 Phan Chu Trinh, TP Quy Nhơn) lần đầu tiên kể lại, nhân dịp kỷ niệm 55 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển (23.10.1961-23.10.2016).
Ông Võ Ngọc Rôm kể chuyện chuyến đi cảm tử.
Người cựu binh già Võ Ngọc Rôm như sống lại những tháng ngày kiêu hãnh nhất của đời thủy thủ, khi tôi nói muốn được nghe chuyện chiến đấu trên tàu không số. “Chuyện thì nhiều lắm, nhưng chuyến đi cảm tử thì bây giờ tôi mới kể. Lý do tôi chưa bao giờ tiết lộ, kể cả vợ con tôi, vì quy định bí mật lúc đó”. Ông Rôm ngân ngấn nước mắt nhìn ra hành lang trước nhà. Ký ức một thời hoa lửa ùa về trong tâm tưởng ông.
Tháng 3.1953, chàng trai Võ Ngọc Rôm rời làng biển Quy Nhơn ra Bắc tập kết. 2 năm sau, ông tình nguyện vào Lực lượng Đoàn 559 (đường Hồ Chí Minh trên bộ), sau đó gia nhập vào Đoàn 759 - tiền thân của Đoàn tàu không số - để vận chuyển vũ khí đạn dược cho chiến trường miền Nam.
Sau chuyến tàu đầu tiên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, ông được đơn vị cho về quê nghỉ phép. Dọc đường nghỉ chân tại Nghi Xuân, Nghệ An, ông tình cờ gặp cô thôn nữ Nguyễn Thị Mùi gánh lúa trên đường làng. Tình yêu thời chiến tranh, chỉ nhìn nhau ánh mắt đã thấy lòng xao xuyến. Xác định sẽ lấy Mùi làm vợ, ông Rôm đưa bà Mùi về Quy Nhơn giới thiệu với gia đình. Đám cưới của họ nhanh chóng diễn ra trong niềm vui chen lẫn ngậm ngùi vì ngày lên đường đã đến.
* * *
Lễ truy điệu sống diễn ra trước lúc ông Rôm bước chân xuống tàu. Sau 4 ngày đêm hành quân ra Bắc, ông Rôm và những đồng đội có mặt tại đảo Bạch Long Vĩ, nhận 1 khẩu DKZ, 50 tấn bộc phá chia đều ra các khoang. “Để nếu bị lộ, tàu sẽ hủy. Toàn bộ vũ khí đạn dược ở mỗi khoang sẽ bị thuốc nổ đánh tung. Thà mất còn hơn để vũ khí rơi vào tay giặc” - ông giải thích.
Một đêm giá rét tháng 10.1963, chuyến tàu bí số 100 được lệnh rời bến. Trên tàu có 16 cán bộ chiến sĩ. Ông Rôm, lúc đó đeo quân hàm thiếu úy, giữ chức máy trưởng. Tất cả đều giả dạng ngư dân.
Sau một đêm bí mật hành quân ra vùng biển Quảng Ninh, trời vừa rạng sáng thì tàu 100 phát hiện từ xa có 2 tàu khu trục Hạm đội 7 của Mỹ. “Chúng tôi hội ý và quyết tâm chiến đấu. Nếu bị lộ, chưa hủy tàu vội mà mớm cho tàu địch chạy sát tàu ta rồi mới cho nổ, để tàu địch cũng nổ theo. Tôi được lệnh cho máy tàu mở hết công suất, vượt ra vùng biển quốc tế, sẵn sàng châm 10 tấn thuốc nổ ở khoang máy và hi sinh. Lúc này, lính Mỹ đứng xếp hàng ngoài lan can tàu quan sát. Chúng chạy theo tàu tôi và ép thành gọng kìm. Tàu tôi vẫn băng băng chạy ra vùng biển quốc tế như không hề biết gì. Sóng cấp 7, nhiều chiến sĩ trẻ say sóng nhưng phải cố gắng ăn lương khô để sống và chiến đấu” - ông Rôm hồi tưởng lại.
Do không nắm chắc “đối phương” nên 2 hạm đội tàu địch tiếp tục triển khai đội hình gọng kìm đeo bám. Chặng đường từ vùng biển Quảng Ninh đến vùng biển Cà Mau gần 3.000 km mà phải chạy tàu 45 ngày liên tục. Đến ngày thứ 46, khi chớm vùng biển Cà Mau, thuyền trưởng quyết định cho tàu chạy luôn sang vùng biển Indonesia, rồi vào Vịnh Thái Lan, sau đó cập cảng ở Campuchia.
Làng chài biển Quy Nhơn năm xưa nơi ông Rôm ra đi, nay là đường Xuân Diệu vòng quanh ôm lấy biển Quy Nhơn lãng mạn.
Thấy tàu ta chạy vào vịnh Thái Lan, hai tàu khu trục Mỹ không đuổi theo nữa mà nằm ngoài chờ vây bắt. “Lúc đó, cán bộ chiến sĩ trên tàu thở phào nhẹ nhõm nhưng cũng rất lo vì chưa đổ được hàng. Sau hơn một tuần ẩn náu ở vùng biển Campuchia, chúng tôi bí mật hành trình về Vàm Lũng, Cà Mau đổ hàng an toàn” - ông Rôm kể.
Tạm biệt gia đình lên đường chiến đấu từ năm 1963, hơn 10 năm sau đó, ông Rôm và gia đình không liên lạc với nhau. Rất nhiều lần, tàu đi qua vùng biển Bình Định, đứng trên mũi tàu, ông nhìn về hướng Quy Nhơn trong màn đêm mà rơi nước mắt.
Mãi đến cuối năm 1974, sau 11 năm chiến đấu, người lính thủy mới được về thăm nhà một lần. Bà Mùi bế con gái ra đón chồng. Họ nhận ra nhau trong niềm vui vỡ òa sau gần bốn ngàn ngày cách biệt. Bà Mùi khóc nghẹn, bởi hai lần gia đình đã nhận giấy báo tử nhưng vẫn tin ông còn sống. “Vợ chồng tôi ôm nhau khóc ngay đầu làng. Nhớ lại ngày ấy gian khổ mà hạnh phúc quá” - ông Rôm ngậm ngùi nhớ lại.
Sau những ngày tháng chiến đấu ở Đoàn tàu không số, ông Rôm tiếp tục vào chiến trường B1 chiến đấu cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Sau đó, ông về Lữ đoàn 125 công tác đến năm 1981 thì nghỉ hưu với cấp hàm đại úy.
Năm 2007, bà Mùi bị tai biến liệt nửa người. Người lính tàu không số năm xưa xông pha biển trận, nay “xông pha” chăm vợ bệnh hiểm nghèo.
Mỗi lần có nhà báo đến hỏi chuyện viết bài, ông Rôm luôn hào hứng kể chuyện. Ký ức thời trai trẻ chiến đấu ở đoàn tàu không số chưa bao giờ phai mờ trong tâm trí ông. Những lúc nhớ đồng đội, ông lại lững thững đi bộ ra biển Quy Nhơn. Ngoài khơi xa ấy, nhiều đồng đội của ông nằm lại mãi mãi không về.
MAI THẮNG