TRÊN DIỄN ĐÀN QUỐC HỘI
Góp ý Luật trợ giúp pháp lý sửa đổi
Tiếp theo Chương trình kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV, chiều 27.10.2016, tại buổi thảo luận tổ về Luật trợ giúp pháp lý sửa đổi, đại biểu Huỳnh Cao Nhất (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Định) đã có một số ý kiến góp ý như sau:
ĐBQH Huỳnh Cao Nhất phát biểu tại thảo luận tổ
Trước hết, tôi tán thành với sự cần thiết ban hành Luật cũng như các mục tiêu và quan điểm chỉ đạo xây dựng dự án Luật như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập trong hoạt động trợ giúp pháp lý; tạo khuôn khổ pháp lý cho công tác trợ giúp pháp lý phát triển theo hướng chuyên nghiệp, đẩy mạnh xã hội hóa, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước và xã hội để cung cấp kịp thời sự hỗ trợ pháp lý cần thiết cho những người yếu thế không có khả năng chi trả dịch vụ pháp lý và những người thuộc diện chính sách. Về các Điều luật, tôi xin góp ý một số nội dung sau:
1. Về người được trợ giúp pháp lý (Điều 7)
Tôi tán thành với quan điểm mở rộng diện người được trợ giúp pháp lý như Tờ trình của Chính phủ. Tuy nhiên, theo quy định như trong dự thảo là chưa bao trùm hết những người được trợ giúp pháp lý đang được quy định trong Luật người khuyết tật (điểm d khoản 1 Điều 4), Luật phòng, chống mua bán người (khoản 1 Điều 36) và Luật trẻ em (Điều 30) và cũng chưa luật hóa tất cả những người đang được trợ giúp pháp lý quy định tại các văn bản dưới luật đang hiện hành. Vì vậy đề nghị cơ quan soạn thảo cần đối chiếu với các luật, nghị định, thông tư hiện hành để bổ sung thêm đối tượng. Việc chỉ quy định lựa chọn những người “có hoàn cảnh khó khăn về tài chính” hoặc “bị buộc tội” mới thuộc diện được trợ giúp pháp lý là chưa phù hợp.
2. Về cơ quan quản lý trợ giúp pháp lý
Dự thảo Luật chưa làm rõ cơ quan quản lý trợ giúp pháp lý là cơ quan nào, trong khi dự thảo Luật có đề cập tại nhiều Điều, khoản (như: khoản 2, Điều 5; điểm a, khoản 2, Điều 10; Điều 12; khoản 1, 2 Điều 13; khoản 3, Điều 15; điểm g, khoản 1, Điều 16…), cơ quan này có đồng thời là cơ quan quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý được quy định tại Điều 40 không và dự thảo luật cũng quy định đây cũng là cơ quan sẽ ký hợp đồng trợ giúp pháp lý với tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý, nên việc cần xác định cụ thể cơ quan quản lý trợ giúp pháp lý nào được phép ký hợp đồng ở Trung ương và địa phương là cần thiết vì còn liên quan đến trách nhiệm hợp đồng dân sự. Do vậy, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, có quy định rõ ràng, để thuận lợi trong quá trình triển khai thực hiện luật.
3. Về chấm dứt thực hiện trợ giúp pháp lý ( Điều 15)
Điểm c khoản 2 quy định tổ chức đăng ký trợ giúp pháp lý chấm dứt thực hiện trợ giúp pháp lý trong trường hợp không thực hiện trợ giúp pháp lý trong 6 tháng liên tục. Tôi đề nghị nên cân nhắc bỏ quy định này bởi vì: thứ nhất tổ chức đăng ký trợ giúp pháp lý là tự nguyện bằng nguồn lực của họ, do vậy không nên đưa ra điều kiện chấm dứt để huy động tối đa nguồn lực. Thứ hai, nếu trong 6 tháng liên tục nhu cầu thực tế không có vụ việc nào thì tổ chức không thể thực hiện, như vậy không đảm bảo chỉ tiêu trong trường hợp này là vì lý do khách quan nên chấm dứt là không hợp lý.
4. Về trợ giúp pháp lý và cấp thẻ trợ giúp viên pháp lý (Điều 18 và Điều 19)
Điều 18 quy định về các tiêu chuẩn của trợ giúp viên pháp lý và điều 19 quy định về việc cấp thẻ trợ giúp viên pháp lý. 2 điều này có mối quan hệ với nhau vì khi đảm bảo các tiêu chuẩn về trợ giúp viên pháp lý (Điều 18) thì người đó sẽ được công nhận và cấp thẻ trợ giúp viên pháp lý (Điều 19). Tuy nhiên, trong nội dung quy định của Điều 18 và Điều 19 dự án Luật lại có sự không phù hợp, thống nhất với nhau. Cụ thể:
- Điều 18 có quy định tiêu chuẩn của trợ giúp viên pháp lý là được đào tạo nghề luật sư mà không đề cập đến trường hợp miễn đào tạo nghề luật sư, trong khi đó Điều 19 quy định về điều kiện được cấp thẻ trợ giúp viên pháp lý có trường hợp được miễn đào tạo nghề luật sư theo quy định của Luật luật sư (điểm c).
- Điều 18 quy định tiêu chuẩn của trợ giúp viên chỉ cần đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư hoặc tập sự trợ giúp pháp lý, trong khi đó Điều 19 quy định về điều kiện để được cấp thẻ trợ giúp viên pháp lý là có Giấy chứng nhận kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư hoặc tập sự trợ giúp pháp lý – điểm d (bao gồm qua thời gian tập sự hành nghề luật sư hoặc tập sự trợ giúp pháp lý và phải đạt kết quả theo quy định trong đợt kiểm tra tập sự hành nghề luật sư, kiểm tra tập sự trợ giúp pháp lý).
Với các vấn đề như trên, đề nghị cơ quan soạn thảo cần xem xét và chỉnh sửa nội dung quy định tại Điều 18 và Điều 19 dự án Luật cho phù hợp và thống nhất với nhau.
5. Về các hình thức trợ giúp pháp lý (khoản 2 Điều 26)
Đề nghị giữ nguyên các hình thức trợ giúp pháp lý theo Luật trợ giúp pháp lý hiện hành, bên cạnh 3 hình thức trợ giúp pháp lý cơ bản là “tư vấn pháp luật”, “tham gia tố tụng” và “đại diện ngoài tố tụng” thì có “các hình thức trợ giúp pháp lý khác” để qua đó giúp đỡ các bên hòa giải, thực hiện những công việc liên quan đến thủ tục hành chính, khiếu nại và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật, thực tiễn các hoạt động đó hiện nay được thực hiện bằng hình thức tổ chức “trợ giúp pháp lý lưu động”, “Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý”… để qua đó trực tiếp tư vấn cho người dân tại cơ sở, đặc biệt là tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo thông qua đó nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật của người dân để có thể tự bảo vệ mình hoặc chủ động tìm đến “trợ giúp pháp lý” khi có nhu cầu, mang lại hiệu quả cao.
7. Về giải quyết khiếu nại tố cáo (Điều 45)
Dự thảo quy định về thời hạn giải quyết khiếu nại lần 1 là trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Giải quyết khiếu nại lần hai là 15 ngày. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 27 và Điều 36 Luật khiếu nại thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 30 ngày và 45 ngày kể từ ngày thụ lý; thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai là 45 ngày và 60 ngày kể từ ngày thụ lý. Do vậy, thời hạn quy định trong Dự thảo không phù hợp với Luật khiếu nại. Ngoài ra, theo quy định của Luật khiếu nại thì nếu người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu thì có thể khiếu nại lên cơ quan cấp trên trực tiếp hoặc khởi kiện ra tòa án, tuy nhiên Dự thảo không quy định về khởi kiện ra tòa án là không phù hợp với Luật khiếu nại. Do vậy, cơ quan soạn thảo nên cân nhắc quy định theo hướng việc giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo sẽ phù hợp hơn.
8. Về Chi nhánh của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước
Thực tiễn, việc thành lập các chi nhánh theo địa bàn liên huyện hoặc tại một huyện ở những địa bàn khó khăn, vùng sâu, vùng xa nơi không có luật sư đã hoạt động rất hiệu quả, phát huy lợi thế gần dân, đưa trợ giúp pháp lý đến với người dân, được chính quyền địa phương ủng hộ, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận được với các dịch vụ trợ giúp pháp lý. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, tiếp tục quy định về Chi nhánh của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tùy theo địa bàn, vùng, miền cho thích hợp.
ĐBQH HUỲNH CAO NHẤT