TRÊN DIỄN ĐÀN QUỐC HỘI
Góp ý báo cáo tình hình KT-XH năm 2016 và nhiệm vụ năm 2017 của Chính phủ
Tiếp tục kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIV, ngày 2 và 3.11, Quốc hội thảo luận ở hội trường về Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020; kết quả thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH năm 2016, kế hoạch phát triển KT-XH năm 2017. Dưới đây là góp ý của đại biểu Lý Tiết Hạnh (Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Định).
Đại biểu Lý Tiết Hạnh phát biểu tại hội trường.
Tôi nhất trí cao với Tờ trình về kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020; Báo cáo tình hình KT-XH năm 2016 và nhiệm vụ năm 2017 của Chính phủ; Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế và ý kiến của các đại biểu tại các phiên thảo luận. Tôi xin góp ý 3 vấn đề sau:
1. Về tái cơ cấu nền kinh tế: Tôi đề nghị trong định hướng tái cơ cấu nền kinh tế, cần tập trung làm rõ hơn nữa nội dung phát triển kinh tế vùng gắn với quy hoạch và phát triển ngành,lĩnh vực của quốc gia.
Cần khẳng định rằng, hơn 10 năm qua Đảng và Nhà nước đã luôn quan tâm và có nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế vùng, liên kết vùng kinh tế. Đây cũng là một nội dung quan trọng được đề cập trong Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng và ngày 1.11.2016, TW Đảng đã có Nghị quyết 05 về đổi mới mô hình tăng trưởng, trong đó xác định rõ 1/8 chủ trương, chính sách lớn, là đổi mới cách thức thực hiện liên kết, phối hợp giữa các địa phương trong phát triển kinh tế vùng; thực hiện có hiệu quả quá trình đô thị hóa.
Thực tiễn hiện nay, quá trình triển khai thực hiện chủ trương, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế vùng, còn nhiều hạn chế, 63 địa phương là 63 nền kinh tế khác nhau. Điều đó dẫn đến việc phát triển manh mún, phân tán nguồn lực, có lúc cạnh tranh lẫn nhau, kìm hãm sự phát triển chung.
Một trong những nguyên nhân của tình hình trên, theo tôi, là do chúng ta còn thiếu cơ chế quản trị, điều phối vùng hiệu quả, do đó sự điều phối liên kết giữa các địa phương còn hạn chế.
Để khắc phục hạn chế trên, tôi đề nghị cần có sự chỉ đạo, điều phối của Chính phủ thông qua hoạt động của các bộ, ngành. Đề nghị Chính phủ cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng; chỉ đạo tiếp tục rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch vùng; các bộ, ngành TW trên cơ sở quy hoạch tổng thể và quy hoạch ngành, lĩnh vực của quốc gia, thông qua các chương trình, dự án cụ thể gắn với lợi thế của từng vùng, trên cơ sở đó gắn kết phát triển KT-XH vùng.
2. Về chỉ tiêu tăng trưởng GDP năm 2017: Theo báo cáo của Chính phủ, 9 tháng đầu năm 2016, GDP tăng 5,93%, trên kế hoạch năm là 6,7%, đạt thấp so với cùng kỳ; Chính phủ đặt quyết tâm đến cuối năm 2016 GDP tăng 6,3 - 6,5%. Như vậy là vẫn không đạt kế hoạch đề ra từ đầu năm. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tăng trưởng nền kinh tế và các chỉ tiêu phát triển KT-XH, kể cả trong điều hành ngân sách quốc gia.
Năm 2017, dự báo tình hình sẽ tiếp tục có những khó khăn. Nhưng trong dự kiến Chính phủ đặt chỉ tiêu tăng trưởng GDP vẫn là 6,7%, đây là quyết tâm lớn của Chính phủ, nhưng sẽ rất khó khăn trong thực hiện. Vì vậy, trong tình hình hiện nay, để chủ động trong điều hành kinh tế vĩ mô, tôi đề nghị Quốc hội, Chính phủ xác định tăng trưởng GDP năm 2017 từ 6,3 - 6,7 %; ứng với mỗi chỉ số tăng trưởng tương ứng sẽ có một kịch bản và các phương án điều hành kinh tế phù hợp. Đồng thời có sự linh hoạt hơn trong chính sách tài khóa và tiền tệ nhằm hỗ trợ thị trường, tháo gỡ khó khăn về vốn cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, khu vực nông nghiệp, nông thôn, qua đó đồng thời phát huy nội lực, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam.
3. Thực hiện Nghị định 67/2014/NĐ-CP của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản.
Việc Chính phủ ban hành Nghị định 67/2014/NĐ-CP là rất kịp thời, hợp lòng dân, thể hiện sự nhạy bén, quyết liệt của Chính phủ trong thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển, gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu chúng tôi thấy quá trình thực hiện có nhiều khó khăn, ách tắc. Việc phê duyệt danh sách số tàu đủ điều kiện đóng mới đạt tỷ lệ thấp; việc ký hợp đồng tín dụng đóng tàu đạt thấp so với số lượng được phân bổ; việc triển khai đóng mới tàu vỏ gỗ, việc lựa chọn các mẫu tàu... không phù hợp với trình độ, tập quán khai thác của người dân, vận hành khó, chi phí cao... Vì vậy, hiện nay số chủ tàu được thực hiện và số con tàu đã được đóng mới, hạ thủy là rất nhỏ trên tổng số tàu được phê duyệt.
Ngay tại Bình Định, là địa phương có số lượng tàu đánh bắt xa bờ lớn thứ 2 trong cả nước, cũng là một trong những địa phương dẫn đầu trong thực hiện Nghị định 67, đến nay cũng chỉ mới hoàn thành, hạ thủy được 33 tàu/217 tàu được phê duyệt... Như vậy, vấn đề đặt ra là vì sao chúng ta đã có một chính sách hết sức đúng đắn, có quyết tâm cao không chỉ từ Chính phủ mà còn từ toàn xã hội, nhưng việc triển khai thực hiện vẫn khó khăn, khúc mắc, hiệu quả không cao.
Đề nghị Chính phủ cần có giải pháp quyết liệt hơn, mà cụ thể là chỉ đạo các bộ ngành TW, Ngân hàng nhà nước phối hợp với địa phương rà soát tìm ra nguyên nhân, giải quyết có hiệu quả những khó khăn, vướng mắc, nhất là những khâu ách tắc... để từ đó, chính sách sẽ thực sự đến được với người dân; và ngư dân sẽ yên tâm vươn khơi bám biển, tham gia phát triển kinh tế biển và góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
ĐBQH LÝ TIẾT HẠNH