Kỷ niệm 99 năm Cách mạng Tháng Mười Nga (7.11.1917 – 7.11.2016)
Cách mạng Tháng Mười Nga mãi mãi soi đường cho cách mạng Việt Nam
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử loài người, khi giai cấp công nhân và nông dân lần đầu tiên làm chủ vận mệnh bằng chính sức mạnh của mình. Nhờ ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười Nga mà Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta đã tìm thấy được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc.
Khác với chiến tranh, khởi nghĩa bao giờ cũng do lực lượng quần chúng đảm nhận. Về mặt lý luận quân sự, trong tác phẩm Nhà nước và Cách mạng, Lênin chỉ ra rằng: ở nước nào mà giai cấp thống trị dùng bộ máy quân sự - cảnh sát tàn bạo, nghĩa là thực chất dùng những biện pháp khủng bố đối với nhân dân, thì ở đó cách mạng nhất thiết phải dùng hình thức bạo lực như khởi nghĩa vũ trang, nội chiến cách mạng, chiến tranh du kích... để đập tan bạo lực phản cách mạng. Lĩnh hội và vận dụng sáng tạo tư tưởng về cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác - Lênin, ngay từ năm 1924, trong Báo cáo với Quốc tế Cộng sản về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: cách mạng Đông Dương phải tiến hành khởi nghĩa vũ trang “mang tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn”. Và nó phải được “chuẩn bị trong quần chúng, nổ ra trong thành phố, theo kiểu các cuộc cách mạng châu Âu, chứ không phải nổ ra đột ngột ở biên giới Trung Quốc, theo phương pháp của những nhà cách mạng trước đây”. Trong tác phẩm Con đường giải phóng viết lại những bài giảng dùng cho lớp huấn luyện cán bộ đầu năm 1941, Người định nghĩa: “Khởi nghĩa vũ trang là nhân dân nổi dậy dùng vũ khí đánh đuổi quân cướp nước đoạt lại chính quyền”. Như vậy, khởi nghĩa vũ trang là bước phát triển cao nhất của phong trào cách mạng quần chúng. Cách mạng Tháng Mười (1917) và Cách mạng Tháng Tám (1945) đều là những điển hình mẫu mực về nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ở Việt Nam, trước Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam sống dưới hai tầng áp bức của đế quốc Pháp và phát xít Nhật. Sau khi Nhật nhảy vào Đông Dương (tháng 9-1940), đã nhanh chóng câu kết với Pháp để thống trị nước ta. Nhân dân ta phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”. Trước tình hình trên, tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Pác Bó, Cao Bằng (tháng 5-1941), Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trương thay đổi chiến lược cách mạng và được hội nghị nhất trí thông qua.
Theo đó, cuộc cách mạng của nhân dân ta lúc này là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, nhằm giải quyết một vấn đề cần kíp là đánh đổ đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc. Đồng thời, tích cực chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Quá trình chuyển hướng chiến lược cách mạng của Đảng còn được khẳng định thêm từ sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương ngày 9-3-1945. Từ đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định kẻ thù chính và duy nhất của nhân dân ta từ ngày 9-3-1945 trở đi là phát xít Nhật, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào Nhật để tiến lên giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Tám (1945) của Việt Nam đã diễn ra với khẩu hiệu bao trùm là “Phản đối xâm lược! Hoàn toàn độc lập! Chính quyền nhân dân!”, mang đầy đủ tính chất và nhiệm vụ của một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Cách mạng Tháng Tám và Cách mạng Tháng Mười đều là những cuộc cách mạng có tính chất nhân dân sâu sắc, là sự nổi dậy của đông đảo quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của chính đảng cách mạng. Tuy nhiên, ngoài những điểm tương đồng vẫn có sự khác biệt căn bản trong thành phần lực lượng: đạo quân chính trị của Cách mạng Tháng Mười là công, nông, binh với khẩu hiệu “công, nông, binh liên hiệp”; còn đạo quân chính trị của Cách mạng Tháng Tám thì có sự mở rộng về mặt thành phần, với hạt nhân là Mặt trận Việt Minh, quy tụ được tất cả các giai tầng yêu nước trong xã hội, không phân biệt giàu - nghèo, sang - hèn, già - trẻ, gái - trai, dân tộc hay tôn giáo...
Về mặt phương pháp cách mạng, cả Cách mạng Tháng Mười và Cách mạng Tháng Tám cùng sử dụng bạo lực cách mạng. Nếu trong Cách mạng Tháng Mười, Lênin dựa vào lực lượng vũ trang là chủ yếu thì ở Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những sáng tạo độc đáo trên cơ sở kế thừa và phát huy bài học của Cách mạng Tháng Mười. Bác Hồ cùng Trung ương Đảng đã tích cực chuẩn bị lực lượng vũ trang, thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, các đội du kích, đội tự vệ và tự vệ chiến đấu nhưng khi thời cơ chín muồi, Người đã chỉ đạo cuộc Tổng khởi nghĩa với lực lượng chính trị của toàn dân, lấy các lực lượng vũ trang làm chỗ dựa; phát huy tính chủ động sáng tạo của từng địa phương và nhanh chóng kết thúc khởi nghĩa, giành trọn chính quyền trong cả nước.
Về địa bàn của cách mạng, khởi nghĩa vũ trang trong Cách mạng Tháng Mười diễn ra theo chiều hướng từ thành thị tỏa về nông thôn, lấy thắng lợi ở trung tâm lớn làm động lực để thúc đẩy khởi nghĩa đi đến thắng lợi hoàn toàn. Đối với Việt Nam, Đảng chủ trương chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, dựa vào nông thôn để xây dựng căn cứ chủ yếu và đội quân chủ lực của cách mạng, kết hợp phong trào nông thôn với phong trào thành thị để khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Hơn thế nữa, Cách mạng Tháng Mười và Lênin còn đem lại cho Việt Nam những bài học vô giá về khoa học lý luận quân sự, đặc biệt là vấn đề tập hợp lực lượng và nghệ thuật tiến hành khởi nghĩa vũ trang đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật. Sức sống bất diệt của Cách mạng Tháng Mười là những kinh nghiệm đó được nghiên cứu, vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh của Việt Nam.
Gần một thế kỷ đã trôi qua, nhưng ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn còn nguyên giá trị đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động trên toàn thế giới, đặc biệt là với cách mạng Việt Nam. Mặc dù con đường đi có khác nhau, song Cách mạng Tháng Tám Việt Nam đã gặp Cách mạng Tháng Mười Nga ở mục đích cuối cùng là thiết lập nền dân chủ, tự do, hạnh phúc cho nhân dân lao động. Thực tiễn cách mạng Việt Nam, dưới ngọn cờ cách mạng của Đảng từ Cách mạng Tháng Tám đến nay đã chứng minh sự đúng đắn và sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà Cách mạng Tháng Mười Nga là ngọn cờ khởi đầu vĩ đại và bất diệt.
PGS-TS Vũ Quang Vinh (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh)
Nguồn: SGGP