Xử lý chất thải y tế: Vấn đề cần quan tâm
Thời gian qua, mặc dù đã có nhiều nỗ lực song công tác quản lý chất thải y tế (CTYT) trên địa bàn tỉnh vẫn còn không ít khó khăn, bất cập. Làm gì để quản lý chặt chẽ CTYT, giảm thiểu ô nhiễm môi trường (ÔNMT) là vấn đề đang được UBND tỉnh và các sở, ngành quan tâm giải quyết.
Nhiều nỗ lực
Theo khảo sát, điều tra của cơ quan chức năng, trên địa bàn tỉnh hiện có 3 bệnh viện thuộc tuyến Trung ương, 9 bệnh viện tuyến tỉnh và 11 trung tâm y tế thuộc tuyến huyện, thị xã, thành phố. Ngoài ra, trên địa bàn TP Quy Nhơn và các huyện, thị xã còn có các phòng khám đa khoa, trong đó có một số phòng khám quy mô khá lớn ở TP Quy Nhơn. Số giường bệnh tại các cơ sở y tế do tỉnh quản lý khoảng 3.400 giường, đạt 22,6 giường/10.000 bệnh nhân.
Nhìn chung, mạng lưới cơ sở y tế trên địa bàn tỉnh cơ bản đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Theo thống kê, trung bình mỗi ngày các bệnh viện trong tỉnh phát sinh khoảng trên 4,5 tấn CTYT, trong đó có 0,6 tấn chất thải nguy hại (chiếm 13,1%). Lượng CTYT phát sinh trung bình là 1,2 - 1,4kg/giường bệnh/ngày, trong đó có 0,2 - 0,3 kg/giường bệnh/ngày là chất thải nguy hại.
Thực hiện nghiêm quy định về xử lý CTYT tại các cơ sở khám, chữa bệnh sẽ góp phần giảm thiểu ÔNMT.
- Trong ảnh: Xe tiêm tại BVĐK tỉnh được đặt các giỏ đựng CTYT.
Bà Hà Thị Thanh Hương, Giám đốc Chi cục Bảo vệ môi trường (thuộc Sở TN&MT), cho biết: Hiện tại, phần lớn các cơ sở y tế cấp tỉnh và các huyện, thị xã đều có hệ thống xử lý nước thải. Về chất thải rắn và CTYT nguy hại, hiện trên địa bàn đã có 13 lò đốt rác y tế của 12 cơ sở y tế. Đây là những lò đốt rác tự động sử dụng công nghệ đốt đa vùng; trong đó có 11 lò có công suất 20 - 30kg/mẻ và 1 lò công suất 250kg/mẻ. Vừa qua, từ Dự án Vệ sinh môi trường các thành phố duyên hải, tại bãi rác Long Mỹ đã xây dựng thêm 1 lò đốt chất thải rắn y tế, góp phần xử lý một lượng lớn CTYT.
Cũng theo bà Hương, những chất thải rắn nguy hại khác được các cơ sở y tế bố trí khu vực lưu chứa theo quy định. Ngoài ra, tại mỗi bệnh viện, cơ sở y tế có cách quản lý, thu gom CTYT riêng. Chẳng hạn như tại BVĐK tỉnh, hàng ngày, mỗi loại CTYT được thu gom vào các túi, thùng theo mã màu quy định và có nhãn ghi tên khoa, phòng bên ngoài túi. Trong mỗi túi gồm 3 - 4 túi nhỏ, mỗi túi đựng chất thải có bảng ghi rõ loại chất thải. Hàng ngày, hộ lý được phân công thu gom các CTYT nguy hại và chất thải thông thường rồi chuyển về nơi tập trung chất thải của khoa, sau đó được vận chuyển theo đường nội bộ của bệnh viện.
Còn khó khăn, bất cập
Những nỗ lực của các cơ sở khám, chữa bệnh trên địa bàn tỉnh trong việc xử lý CTYT thời gian qua rất đáng ghi nhận, nhất là tình trạng bệnh nhân ngày càng trở nên quá tải. Tuy nhiên, vẫn còn không ít tồn tại, khó khăn trong công tác quản lý, xử lý CTYT.
Theo bà Hà Thị Thanh Hương, thời gian qua, hầu hết hệ thống xử lý nước thải tại các bệnh viện đều quá tải vì lượng nước thải phát sinh khá lớn (gấp gần 2 - 3 lần thực tế); trong đó tại BVĐK tỉnh phát sinh 700 m3/ngày/đêm. Đáng lưu ý, hiện phần lớn các phòng khám tư nhân và cả các phòng khám đa khoa trên địa bàn TP Quy Nhơn đều chưa có hệ thống xử lý nước thải, mà thoát vào hệ thống chung của thành phố, gây nguy cơ ÔNMT.
Về việc xử lý chất thải rắn y tế, hiện các cơ sở y tế trên địa bàn đều đã bố trí khu vực lưu chứa, song vẫn chưa hợp đồng được với đơn vị có chức năng để thu gom, xử lý theo quy định. Đồng thời, đường vận chuyển CTYT nguy hại từ các trạm y tế về huyện khá xa, trong khi nhân lực và các thiết bị hỗ trợ có hạn nên nhiều trạm y tế đã thực hiện bằng biện pháp đốt không kiểm soát, hoặc chôn lấp. Bên cạnh đó, hầu hết các lò đốt CTYT nguy hại của các bệnh viện, trung tâm y tế đều gần với khu vực dân cư, khả năng gây ÔNMT không khí dễ xảy ra.
Không chỉ có vậy, đến nay, hoạt động xử lý chất thải rắn y tế của Công ty cổ phần Môi trường đô thị Quy Nhơn tại lò đốt chất thải rắn y tế ở bãi rác Long Mỹ vẫn chưa được Bộ TN-MT cấp phép hoạt động.
Đề xuất một số giải pháp
Theo dự báo, đến năm 2020, số giường bệnh tại các cơ sở khám, chữa bệnh trên địa bàn tỉnh sẽ tăng từ 3.400 giường lên 4.530 giường; lượng CTYT trên địa bàn tỉnh sẽ tăng lên khoảng 5.537kg/ngày, trong đó lượng chất thải rắn y tế nguy hại phát sinh khoảng 906kg/ngày. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để quản lý, xử lý CTYT trên địa bàn, góp phần giảm thiểu ÔNMT?
Bà Hà Thị Thanh Hương cho biết, Chi cục Bảo vệ môi trường đã đề xuất một số giải pháp, như: Sở Y tế cần rà soát lại các hệ thống xử lý nước thải để có kế hoạch đầu tư mới, hoặc nâng cấp kịp thời; định hướng lựa chọn công nghệ xử lý nước thải phù hợp; quan tâm trang bị các vật dụng thu gom chất thải rắn y tế, nhất là CTYT nguy hại; chú trọng đến công nghệ xử lý chất thải rắn y tế, giảm dần tỉ lệ xử lý bằng phương pháp đốt. Tập huấn, tuyên truyền cho cán bộ, nhân viên thu gom chất thải rắn y tế về phương thức thu gom theo đúng quy định; quản lý chặt chẽ các loại chất thải rắn tái chế, tái sử dụng…
Còn theo ông Đinh Văn Tiên, Phó giám đốc Sở TN-MT, Sở vừa đề xuất UBND tỉnh việc xử lý CTYT trên địa bàn tỉnh: Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo Công ty Môi trường đô thị Quy Nhơn khẩn trương thực hiện các thủ tục xin cấp giấy phép theo quy định. Ngoài ra, để đảm bảo việc thu gom, xử lý chất thải rắn y tế được liên tục, đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo Sở Y tế phối hợp với Sở TN-MT hướng dẫn, giám sát các đơn vị phát sinh chất thải y tế trên địa bàn tỉnh khẩn trương hợp đồng với các đơn vị có giấy phép xử lý chất thải nguy hại để thu gom, vận chuyển, xử lý CTYT nguy hại theo đúng quy định.
VIẾT HIỀN