Em làm được rồi cô!
Nhớ tặng cô Liệu
* LÊ HỨA HUYỀN TRÂN
Phải bảy năm sau ngày cô mất tôi mới đến viếng mộ cô. Chẳng phải tôi đã quên cô trong từng ấy năm, tôi không đủ can đảm để đến viếng cô. Tôi sợ phải nói với cô ước mơ mà ngày xưa cô đã gầy dựng cho tôi, tôi sợ khi đối diện với niềm tin cô đã dành cho mình…
* * *
Cô là giáo viên dạy Văn cấp ba của tôi. Cô là người Huế, nên ngay khi cô bước vào lớp và cất lên những lời giảng đầu tiên học trò trong lớp đã rì rầm rì rầm. Ngày đó, khi mới vào trường, khối lớp 10 được chọn giáo viên cho mình, nếu sau vài buổi học đầu tiên, nếu cảm thấy giáo viên đó không thích hợp, lớp có thể đề nghị Ban giám hiệu đổi giáo viên. Sử dụng cái quyền đó, lớp chúng tôi đồng loạt kiến nghị đổi cô. Cô buồn thấy rõ. Hôm sau, khi đứng lớp, cô đề nghị - lời đề nghị mà cho tới tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ rất rõ:
- Ðể cô dạy các em thử một tuần. Sau một tuần nếu các em vẫn muốn giáo viên khác thay thế cô thì cô không còn gì để nói. Cô biết vì giọng cô khó nghe nên mấy đứa nghĩ rằng khó tiếp thu, nhưng đừng lo, cô sẽ nói chậm lại để các em có thể nghe rõ hơn.
Và trong suốt một tuần sau đó, bằng nội lực của một cô giáo đứng lớp đã nhiều năm, giỏi nghề, khi giảng cô phát âm chậm rãi, dồn nén câu chữ, cốt để chúng tôi nghe rõ và tiếp thu trọn vẹn thông điệp của mình. Không ai bảo ai, nhưng trong ánh mắt, tất cả chúng tôi bấy giờ đều ân hận trước quyết định nóng vội của mình.
Sau này, khi nhắc lại với cô, cô vẫn hay cười- cô có nụ cười rất hiền: “Ðứa nào cũng muốn nhanh chóng nhận ngay điều tốt nhất, đó là lẽ thường. Giọng nói khác miền sẽ khó nghe hơn, khó nghe thì khó tiếp thu. Cô biết chuyện đó nhưng hôm đó cô quên! Cô cũng không nghĩ mấy đứa sử dụng ngay cái quyền kia chỉ sau 1 tiết giảng!”.
Cô gắn bó, gần gũi với chúng tôi đến độ chúng tôi có thể kể cho cô nghe những lắng lo thường nhật của mình, từ chuyện cãi nhau với bố mẹ, đến việc mới cảm thấy thinh thích một ai đó, cho đến chuyện có những bất đồng với những đứa bạn thân. Nhưng có một đứa luôn giữ khoảng cách với cô, thậm chí không hề hé răng với cô nửa lời, đó là tôi. Tôi ý thức được điều đó khi con bạn thân buột miệng nói: “Ngay cả tao, đến tận giờ cũng chẳng biết mày đang nghĩ gì trong đầu”. Tôi thiếu tình thương ba mẹ, những người rong ruổi theo những chuyến hàng xa. Lâu dần, tôi không cho phép mình được tâm sự với bất cứ ai về thiếu thốn ấy. Tôi có cảm giác nếu nói về điều đó, tôi sẽ lộ ra sự yếu đuối của mình và như thế thì thật là thảm hại.
Hôm ấy, tôi đi học sớm. Ngang qua lớp, thấy tôi ngồi một mình, cô tạt vào trò chuyện.
- Em ghét cô lắm, phải không? - Cô hỏi nhỏ.
- Ơ, không! Sao cô hỏi vậy?
- Thế em có mến cô không?
- Em cũng không rõ nữa.
Thấy cô thoáng buồn, tôi ra chiều xin lỗi.
- Sao lại xin lỗi? Cô biết chắc một điều là em không ghét cô. Cứ từ từ rồi mở lòng ra với cô nhé.
Rồi cô để tôi lại một mình. Từ lúc ấy, tôi bắt đầu chú ý đến cô. Tôi bắt đầu ngắm cô nhiều hơn. Tôi thấy sớm hơn các bạn những chân tóc điểm bạc của cô, nghe thấy lờ mờ trong giọng nói mềm mại của cô có những vết xước, tôi bắt đầu trò chuyện và biết đang ở bên một kho tàng kiến thức không chỉ về văn chương.
Tôi có tên trong danh sách đội dự tuyển học sinh giỏi Văn của trường. Sau mấy tháng bồi dưỡng, trường sẽ sàng lọc, chọn ra những học sinh phù hợp nhất để đi dự cuộc thi học sinh giỏi cấp tỉnh. Tôi rất hãnh diện, là thành viên đội tuyển nghĩa là năng lực của mình đã được thừa nhận. Tôi hết sức tự tin vào sức học của mình. Càng tự tin tôi càng ra sức học, để chứng minh rằng cô đã đặt niềm tin đúng chỗ.
Thế nhưng, tôi là người duy nhất của đội tuyển không đạt yêu cầu. Vì lẽ, khi xét, trường không chỉ nhìn vào một môn Văn mà còn tính đến các môn học khác. Tôi bị loại vì điểm môn Hóa của tôi không đủ chuẩn. Tôi hụt hẫng, bỏ ăn và thậm chí còn tránh gặp cô.
Khi tôi lên lớp mười một, cô lại đưa tôi vào đội dự tuyển Văn lần nữa. Và lần này, cô giám sát toàn bộ việc học của tôi chứ không chỉ riêng môn Hóa. Cuối cùng, tôi cũng trở thành thành viên chính thức của đội tuyển đi thi học sinh giỏi Văn của trường. Cô hay nói với tôi:
- Em có chất văn trong người; trong đó, có lẽ cái chất “sáng tác” còn nhiều hơn chất “văn học nhà trường”. Nhưng cô vẫn muốn đưa em vào đội tuyển vì cô muốn bồi dưỡng chất văn trong con người em. Cô hy vọng sau này em sẽ trở thành một người viết văn có những tác phẩm thật hay.
Tôi hiểu điều cô chia sẻ. Tôi nghĩ và tôi tin việc tôi ở trong đội tuyển không phải để đi thi mà chủ yếu để tận dụng cơ hội hun đúc tố chất của mình. Tôi miệt mài học, nỗ lực đọc thật nhiều và thử sáng tác. Rồi tôi nghe tin cô mắc bệnh nan y. Nặng tới mức cô được chuyển về Huế. Các bác sĩ chẩn đoán cô bị ung thư vòm họng. Lớp tôi hoang mang, tôi cũng thế. Cả lớp xếp một ngàn con hạc bỏ vào hũ thủy tinh, gửi ra Huế mong cô sớm bình phục.
Tôi biết chắc suốt đời tôi sẽ không thể nào quên được cuộc điện thoại ấy. Hôm đó, tôi đang học tiết Thể dục, một cuộc điện thoại gọi đến. Là của cô. Tiếng được tiếng mất, cô nói với tôi: “Nói với các bạn là cô không sao đâu. Bảo mấy đứa lo học chứ đừng lo nhiều cho cô. Cô vẫn khỏe. Còn em, cô mong em lên đại học chọn con đường đúng đắn, cô muốn thấy em thành một người viết văn”. Hết cuộc điện thoại, tôi thấy mình đứng giữa thinh lặng.
Vài hôm sau, tôi đến trường. Vừa thấy tôi, cái Phương đã òa khóc nức nở. Nhiều đứa khác đang ngồi trong lớp cũng sụt sùi, chúng tôi biết cô đã mất.
Suốt bốn năm đại học, tôi xa nhà, xa quê, không viếng mộ cô được. Năm năm sau, tôi cố gắng xin việc ở một nhà xuất bản nhưng bất thành nên vào làm một công ty nhỏ, tôi trốn biệt mỗi khi nhớ cô. Năm thứ sáu, tôi đã là một người viết văn, nhưng không dám đọc tác phẩm của mình cho cô nghe. Ðến năm thứ bảy, tôi chậm rãi đến viếng mộ cô. Trên di ảnh cô vẫn nở nụ cười thật hiền, nhìn tôi, như chờ đợi, như cỏ đã úa màu. Tôi thì thầm: Cô đợi em có lâu không cô?
L.H.H.T