Bình Ðịnh với hội nhập kinh tế quốc tế sâu và toàn diện:
Nhận diện cơ hội, hóa giải thách thức
Hội nhập kinh tế quốc tế (KTQT) là một xu thế tất yếu với tác động sâu rộng. Ðối với nền kinh tế, hội nhập tạo cơ hội mở rộng thị trường, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, tạo động lực thúc đẩy thu hút nguồn vốn đầu tư; tạo cơ hội tìm kiếm đối tác, liên kết kinh doanh... Tuy nhiên, hội nhập KTQT cũng đặt ra những thách thức không nhỏ.
Viện Nghiên cứu Phát triển KT-XH tỉnh vừa tổ chức Hội thảo “Nhận diện cơ hội và thách thức đối với kinh tế Bình Ðịnh trong điều kiện hội nhập sâu và toàn diện”. Ðây là nghiên cứu “đặt hàng” của UBND tỉnh, nhằm làm rõ những vấn đề quanh các giải pháp để tỉnh ta khai thác tốt các lợi ích và hạn chế bất lợi từ quá trình hội nhập KTQT.
Hội nhập KTQT đòi hỏi các DN cần chủ động thông qua chiến lược kinh doanh, nâng cao năng lực quản trị, đổi mới phương thức sản xuất… đáp ứng quy tắc xuất xứ trong các FTA.
- Trong ảnh: Chế biến cá ngừ đại dương xuất khẩu tại Công ty CP Thủy sản Bình Định.
Ðến nay, Việt Nam hiện đã tham gia 16 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 9 hiệp định đã có hiệu lực. PGS.TS. Ðỗ Ngọc Mỹ, Phó Hiệu trưởng Trường Ðại học Quy Nhơn, cho rằng, sự cạnh tranh giữa các địa phương trong hội nhập KTQT đều giống nhau, điểm mấu chốt là ở chỗ nơi nào nhận diện được cơ hội và thách thức càng chính xác chừng nào sẽ càng tăng được “sức đề kháng” cho nền kinh tế chừng đó.
Cơ hội nhiều, thách thức không ít
Theo TS. Võ Ngọc Anh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển KT-XH tỉnh, trong lĩnh vực đầu tư, cơ hội cho việc thúc đẩy thu hút vốn đầu tư vào Bình Ðịnh là rất lớn. Ðó là tạo ra một làn sóng đầu tư mới nhờ việc mở rộng thị trường; cơ hội thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nông nghiệp, đặc biệt là từ Nhật Bản, Hàn Quốc. Nhờ những ưu đãi thuế quan có từ các FTA, nhiều nhà đầu tư ở những nước khác sẽ tìm cơ hội đầu tư tại Việt Nam nói chung và Bình Ðịnh nói riêng để thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm của doanh nghiệp (DN). Tuy nhiên, thách thức cũng không nhỏ. Cơ chế giải quyết tranh chấp cho phép nhà đầu tư được kiện nhà nước nơi nhận đầu tư ra Trọng tài Quốc tế độc lập với tòa án hay cơ quan giải quyết tranh chấp của nhà nước đó. “Ðây là vấn đề lớn mà các cơ quan quản lý tại Bình Ðịnh cần lưu ý. Cơ chế này với các nguy cơ kèm theo sẽ là một sức ép để buộc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về đầu tư tại Bình Ðịnh phải hành xử đúng nguyên tắc và pháp luật, tránh để bị kiện”- ông Anh phân tích.
Ðối với nền kinh tế, thông tin đưa ra tại hội thảo khiến nhiều người lo ngại trước trình trạng DN - đội quân tiên phong trong hội nhập - chưa có sự chuẩn bị kỹ lưỡng. Kết quả khảo sát 100 DN trên địa bàn tỉnh của Viện Nghiên cứu Phát triển KT-XH tỉnh cho thấy, vẫn còn nhiều DN “thờ ơ” về sự tác động của các cam kết hội nhập KTQT, cho rằng đó là chuyện ở tầm… quốc gia. Khi được hỏi về sự chuẩn bị của DN để biến các cam kết của Việt Nam thành cơ hội cho mình, chỉ có 7% DN chuẩn bị kỹ lưỡng, 36% DN có chuẩn bị nhưng không nhiều, còn lại không hề có sự chuẩn bị nào cả (!).
Trong khi đó, ông Nguyễn Trung Phong, Phó Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, thông tin: Bình Ðịnh hiện có khoảng 400 DN tham gia các hoạt động xuất khẩu, nhưng chủ yếu là các mặt hàng xuất thô như: dăm gỗ, mì lát, tinh quặng (thô), đá, gia công may mặc… “DN xuất nhập khẩu của chúng ta chủ yếu là DN nhỏ về quy mô, vốn và nhiều thứ khác. Ðiều đó khẳng định, hội nhập KTQT với DN Bình Ðịnh cơ hội thì ít mà thách thức thì nhiều” - ông Phong nhận định.
Bên cạnh đó là nhiều thách thức mang tính khách quan. Theo bà Cao Thị Kim Lan, Giám đốc Công ty CP Thủy sản Bình Ðịnh, năm 2014-2015, hàng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam bị các nước trả về rất nhiều do dư lượng kháng sinh. Năm 2016, xảy ra sự cố “Formosa” ở 4 tỉnh Bắc miền Trung, việc kiểm soát chất lượng sản phẩm thủy sản Việt Nam của thị trường châu Âu và Mỹ càng nghiêm ngặt. “Thậm chí, các nước châu Âu còn ra hẳn tuyên bố, nếu kiểm tra lô hàng xuất khẩu thủy sản nào có vấn đề thì cắt luôn quota. Nhiều tháng nay, DN xuất khẩu thủy sản vừa xuất hàng vừa lo, xuất nhiều thì sợ bị trả hàng, mà không xuất thì không thể trả nợ hợp đồng...” - bà Lan chia sẻ.
Cần có tầm nhìn và hành động để vượt qua thách thức
Ðể khắc phục thách thức, tận dụng thời cơ, Viện Nghiên cứu Phát triển KT-XH tỉnh đề ra 2 nhóm giải pháp. Nhóm giải pháp đối với chính quyền địa phương nhấn mạnh đến tuyên truyền về hội nhập KTQT; chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của địa phương và phát triển nguồn nhân lực… Nhóm giải pháp dành cho DN nhấn mạnh sự chủ động hội nhập của DN thông qua các chiến lược; nâng cao năng lực quản trị, đổi mới phương thức sản xuất, chất lượng hàng hóa... đáp ứng các quy tắc xuất xứ trong các FTA.
Ði vào cụ thể, ông Nguyễn Trung Phong cho rằng, đòi hỏi trước hết để gia nhập vào các FTA đặt ra vấn đề đối với DN Bình Ðịnh phải nắm được thông tin thị trường với các lợi thế và khó khăn. Trong khi chính quyền và cơ quan quản lý nhà nước cũng cần chủ động một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp trong hỗ trợ tư vấn thị trường cho DN.
Còn bà Cao Thị Kim Lan cho rằng, việc hỗ trợ chính sách của Chính phủ cần đi sâu, đi sát với thực tế, đừng để chính sách “chết yểu”. “Ngoài các chính sách chung, tỉnh nên tạo thêm điều kiện cho các DN xuất khẩu nói chung và xuất khẩu thủy sản nói riêng trong điều kiện có thể về cơ chế của tỉnh” - bà Lan đề đạt.
Trong khi đó, đề cập đến “bầu sữa” hỗ trợ vốn cho các DN đủ tiềm lực hội nhập KTQT, ông Nguyễn Trà Dương, Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Bình Ðịnh, cho rằng, đã có các cơ chế, chính sách cho các DN được hỗ trợ thêm về vốn, hàng năm dư nợ khai thác đều tăng. “Ngân hàng Nhà nước tỉnh đã triển khai các hoạt động đối thoại với DN về cơ chế, chính sách cũng như “môi trường” tiếp cận vốn cho DN. Tuy nhiên, ngoài cơ chế, chúng ta vẫn cần có hành lang, kể cả cơ sở hạ tầng đồng bộ, thuận lợi cho DN tiếp cận và phát triển” - ông Dương nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, một số DN “hiến kế” về định hướng phát triển kinh tế tỉnh về lâu dài để phù hợp với xu thế hội nhập. Ông Cao Minh Thành, Phó Giám đốc Tân cảng miền Trung, chỉ ra những khó khăn về xuất nhập khẩu của Bình Ðịnh. Ðó là sự đơn điệu về chủng loại, với 65-70% sản lượng hàng hóa qua cảng là dăm gỗ và mì lát. Thứ hai là sự cạnh tranh trong hoạt động của hệ thống cảng biển, Bình Ðịnh không nhanh tay cũng chẳng có lợi thế cảng trung chuyển quốc tế khi các tỉnh, thành lân cận cũng chạy đua.
THU HIỀN