Qua kiểm tra các công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn:
Cần điều chỉnh mô hình quản lý vận hành phù hợp
Ông Hồ Đắc Chương.
Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh và Sở NN-PTNT, Trung tâm Nước sạch- Vệ sinh môi trường nông thôn (NSVSMTNT) tỉnh đã tiến hành kiểm tra tất cả các công trình cấp nước (CTCN) sinh hoạt khu vực nông thôn đã được xây dựng và đưa vào hoạt động trong thời gian qua, nhằm đánh giá thực trạng, đề xuất các biện pháp khắc phục. PV Báo Bình Ðịnh đã phỏng vấn ông Hồ Ðắc Chương, Giám đốc Trung tâm NSVSMTNT tỉnh về vấn đề này.
* Xin ông cho biết nội dung kiểm tra các công trình cấp nước ở khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh ta?
- Trong những năm qua, tỉnh ta đã huy động nhiều nguồn vồn khác nhau để đầu tư xây dựng 136 CTCN, gồm 105 CTCN tự chảy và 31 CTCN bằng máy bơm ở khu vực nông thôn tại 11/11 huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh. Các CTCN nói trên có tổng công suất thiết kế 44.920 m3/ngày-đêm, phục vụ cấp nước sinh hoạt cho 403.910 người dân. Tuy vậy, vì nhiều lý do khác nhau, đến nay có nhiều CTCN bị hư hỏng, không phát huy hiệu quả, gây lãng phí tiền của và bức xúc trong nhân dân.
Trước tình hình này, UBND tỉnh và Sở NN-PTNT đã chỉ đạo Trung tâm NSVSMTNT tiến hành khảo sát thực địa, đánh giá hiện trạng quản lý kỹ thuật; quản lý tài chính; mô hình tổ chức quản lý; nhân lực quản lý vận hành… để tìm nguyên nhân CTCN sinh hoạt nông thôn hoạt động kém hiệu quả. Qua đó, tham mưu, đề xuất UBND tỉnh các giải pháp khắc phục.
* Kết quả kiểm tra như thế nào, thưa ông?
- Qua kiểm tra thực tế cho thấy, trong số 136 CTCN đã được đầu tư xây dựng, có 23 công trình không hoạt động và 113 công trình đang hoạt động. Trong số các công trình đang hoạt động có 28 công trình bị khô nước vào mùa nắng. Như vậy, vào mùa nắng có 51 CTCN không hoạt động; tập trung nhiều ở các huyện miền núi, trong đó Vĩnh Thạnh 6 công trình, An Lão 6 và Vân Canh 4.
Kiểm tra hoạt động quản lý tài chính thu phí nước và chi phí khác tại UBND các xã quản lý CTCN, chúng tôi thấy vấn đề này chưa rõ ràng, minh bạch giữa quản lý nhà nước cấp xã và hoạt động sự nghiệp có thu. Đối với công trình do cộng đồng quản lý thì việc tự thu, tự chi không có cơ quan kiểm soát.
Đối với mô hình tổ chức quản lý và nhân lực quản lý vận hành CTCN, ở tỉnh ta có mô hình quản lý Trung tâm nước (Trung tâm NSVSMTNT) quản lý 3 công trình; Ban quản lý cấp nước huyện quản lý 6 công trình; UBND xã quản lý 19 công trình; HTX quản lý 5 công trình; doanh nghiệp quản lý 11 công trình; cộng đồng quản lý 91 công trình và đơn vị tư nhân 1 công trình.
Thực tế cho thấy, có rất nhiều mô hình quản lý đã bộc lộ sự yếu kém về nhiều mặt, trong đó mô hình cộng đồng quản lý là kém nhất. Phần lớn UBND các huyện giao cho UBND xã quản lý CTCN, nhưng xã lại giao cho trưởng thôn làm nhiệm vụ quản lý, vận hành công trình (được gọi là cộng đồng tự quản lý). Trưởng thôn không được đào tạo, không được trả lương quản lý, không có kinh phí sửa chữa, bảo dưỡng định kỳ và không quy định thu phí sử dụng nước. Do vậy, các CTCN do cộng đồng quản lý đang bị hư hỏng, hoạt động kém hiệu quả, trong đó có 23 công trình không hoạt động và không có biện pháp khắc phục.
Mô hình UBND xã quản lý nhiều CTCN, nhưng việc tổ chức quản lý, vận hành công trình cũng không đúng quy định; người quản lý vận hành công trình chưa qua đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, thường là những nông dân làm việc bán thời gian, theo nhiệm vụ của UBND xã giao và hưởng lương từ UBND xã, tinh thần phục vụ không cao, nên nhiều công trình xuống cấp, hư hỏng. Tình hình tài chính của mô hình này cũng không minh bạch, rõ ràng…
Mô hình HTX quản lý, tồn tại lớn nhất là HTX không có kỹ thuật ngành nước để vận hành, bảo dưỡng công trình; HTX thường giảm bớt các công đoạn xử lý, chất lượng nước không bảo đảm, không duy tu bảo dưỡng công trình theo định kỳ…
Điều đó chứng tỏ, khâu lập dự án, hồ sơ thiết kế, xây dựng và công tác quản lý và vận hành các CTCN tại các địa phương đã và đang bộc lộ quá nhiều bất cập.
* Theo ông, tỉnh ta cần phải làm gì để khắc phục những tồn tại nêu trên?
- Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác đầu tư xây dựng, quản lý vận hành các CTCN tại các địa phương, chúng tôi kiến nghị UBND tỉnh ban hành chỉ thị về việc tăng cường công tác quản lý vận hành CTCN sinh hoạt tập trung vùng nông thôn, gắn trách nhiệm của chính quyền địa phương với hiệu quả CTCN do địa phương làm chủ đầu tư. Các địa phương cũng cần quản lý tốt chất lượng khảo sát, lập dự án đầu tư, lập thiết kế bản vẽ thi công và nghiêm túc chấp hành các Nghị định của Chính phủ về quản lý đầu tư xây dựng, quản lý công trình xây dựng.
Ngoài ra, còn phải thực hiện theo quy định của Chương trình mục tiêu quốc gia NSVSMTNT giai đoạn 2012-2015 đã được Chính phủ phê duyệt. Tổ chức tham vấn cộng đồng vùng dự án; lựa chọn đơn vị quản lý vận hành; kế hoạch đào tạo quản lý vận hành; xây dựng quy trình vận hành công trình. Bên cạnh đó, lựa chọn đơn vị giám sát công trình có kinh nghiệm trong lĩnh vực nước sạch giúp chủ đầu tư giám sát chất lượng công trình; tư vấn điều chỉnh, bổ sung hồ sơ hợp lý nhằm bảo đảm công tác vận hành an toàn, dễ đạt yêu cầu về chất lượng nước sau xử lý.
Cần điều chỉnh mô hình quản lý vận hành CTCN, loại bỏ mô hình quản lý không phù hợp, thiếu trách nhiệm, để công trình hư hỏng, chất lượng nước thường xuyên không đạt yêu cầu. Mỗi địa phương cần thành lập Ban quản lý cấp nước sạch và vệ sinh để quản lý vận hành tất cả công trình có quy mô nhỏ hơn 1.000m3 nhằm tăng trách nhiệm của Nhà nước đối với nhân dân, tăng hiệu quả của việc cấp nước.
Mặt khác, tỉnh cần nâng cấp mô hình quản lý Trung tâm nước như là một cơ sở bồi dưỡng cho công nhân quản lý vận hành ở các địa phương; giao Trung tâm quản lý vận hành công trình có quy mô từ 1.000m3 trở lên và kiểm soát chất lượng nước CTCN sinh hoạt nông thôn. UBND tỉnh quy định cụ thể chế tài đối với các đơn vị quản lý cấp nước vi phạm chất lượng nước…
* Cảm ơn ông!
PHẠM TIẾN SỸ (Thực hiện)