Xây dựng cơ sở dữ liệu nguồn thải: Giúp quản lý xả thải hiệu quả hơn
Những năm qua, tình hình xả thải các loại nguồn thải (nước thải, khí thải, chất thải rắn (CTR), chất thải nguy hại) trên địa bàn tuy đã được quan tâm song vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại. Vì vậy, xây dựng cơ sở dữ liệu nguồn thải tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn là yêu cầu cấp thiết mà ngành TN-MT tỉnh đang thực hiện.
Theo ông Trần Đình Chương, Phó giám đốc Sở TN-MT, trên địa bàn tỉnh hiện có 6 khu công nghiệp (KCN) và 42/63 cụm công nghiệp (CCN) đã đi vào hoạt động. Trong số các CCN đã hoạt động, có 10 CCN chưa đầu tư xây dựng hạ tầng. Các CCN chưa hoạt động nhưng cũng đã có các cơ sở sản xuất hoạt động trong CCN. Quá trình hoạt động của các cơ sở sản xuất đã phát sinh chất thải có nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe cộng đồng.
Cán bộ Trung tâm Quan trắc TN-MT (Sở TN-MT) đang phân tích, đánh giá các mẫu nước thải trên địa bàn tỉnh.
Tại KCN Phú Tài và Long Mỹ có 121 doanh nghiệp (DN) đã hoạt động và thải ra khoảng 9,29 tấn CTR/ngày. Tại KCN Nhơn Hòa có 22 DN hoạt động, thải ra khoảng 0,5 tấn CTR/ngày. Tại Khu kinh tế Nhơn Hội có 8 DN hoạt động, thải ra 0,14 tấn CTR/ngày. Riêng các CCN trên địa bàn thải ra khoảng 53 tấn CTR/ngày.
Thời gian qua, việc quy hoạch các CCN trên địa bàn tỉnh chưa chú trọng đến yếu tố phát sinh chất thải của các ngành nghề, chưa quy hoạch ngành nghề giống nhau vào cùng một CCN nên dẫn đến một số CCN chỉ có 1-2 ngành nghề phát sinh nước thải sản xuất nhưng lại đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung, dẫn đến việc đầu tư kém hiệu quả.
Theo bà Hà Thị Thanh Hương, Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ môi trường thuộc Sở TN&MT, tại các KCN, ô nhiễm môi trường do nước thải bởi 2 nguồn: nước thải sản xuất và nước thải sinh hoạt. Qua khảo sát cho thấy, lưu lượng nước thải tiếp nhận tại các DN thuộc KCN Phú Tài và Long Mỹ bình quân khoảng 600m3/ngày đêm; tại KCN Nhơn Hòa là 40-50 m3/ ngày đêm. Đối với các CCN trên địa bàn, nguồn gây ô nhiễm môi trường chính là nước thải sinh hoạt. Tổng lưu lượng nước thải sinh hoạt tại các CCN trên địa bàn ước tính khoảng 39.172m3/ngày đêm. Mặc dù nguồn nước thải sinh hoạt được các cơ sở sản xuất trong CCN xử lý bằng bể tự hoại trước khi ngấm vào môi trường, song qua phân tích các mẫu nước, nhiều chỉ tiêu BOD, COD, Coliform đều vượt chuẩn cho phép từ 5 đến 10 lần. Ngoài ra, còn là tình trạng bụi, khí thải phát sinh tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh ở các KCN, CCN, nhất là hoạt động đốt lò hơi sử dụng nguyên liệu củi, than đá, dầu DO, mùn cưa…
Không chỉ có vậy, theo ông Trần Đình Chương, công tác quản lý cơ sở dữ liệu các nguồn thải phát sinh từ các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn tỉnh chưa được hệ thống hóa nên không nắm được tổng lượng chất thải trên từng địa bàn, từng khu vực, dẫn đến việc đánh giá tình hình môi trường liên quan đến các nguồn thải trên địa bàn còn nhiều bất cập. Vì vậy, UBND tỉnh đã đồng ý cho xây dựng cơ sở dữ liệu nguồn thải tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; giao Chi cục Bảo vệ môi trường thực hiện.
Bà Hà Thị Thanh Hương cho biết: Từ đầu tháng 9.2016, Chi cục và Công ty TNHH An Hải đã nỗ lực triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu nguồn thải. Mục tiêu đề ra là hoàn thiện cơ sở dữ liệu để cập nhật một cách đầy đủ, kịp thời thông tin về nguồn thải của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn tỉnh. Sau 4 tháng triển khai, Công ty An Hải đã hoàn thành và giao nộp sản phẩm. Bộ cơ sở dữ liệu được thực hiện trên nền ArcGIS, phù hợp với cơ sở dữ liệu Quốc gia tích hợp các thông tin trên bản đồ và quản lý trên hệ thống webgis, truy cập trực tuyến (online); dễ dàng truy cập, truy xuất dữ liệu, có tính mở và kế thừa… sẽ là công cụ giúp công tác quản lý xả thải chặt chẽ và hiệu quả hơn.
VIẾT HIỀN