Người hai quê
* Truyện ngắn của HƯƠNG VĂN
Ðêm. Ba tôi ngủ một mình ở nhà trên. Hai mẹ con tôi nằm nhà dưới. Tôi thường nghe tiếng ba đi lại khẽ khàng, mẹ ôm chặt lấy eo tôi, rồi không cục cựa. Ba đến gần, dành cho tôi một nụ hôn lên trán, rồi lại khẽ khàng như lúc đi xuống.
Tôi lay vai mẹ:
- Mẹ lạ quá. Sao cứ xa cách với ba làm gì?
- Không, mẹ yếu người lắm. Mày ngủ với mẹ, cho mẹ được êm giấc, con ạ!.
Mẹ nói với tôi như vậy chỉ cốt con gái nằm che kín giường. Tôi cố vớt vát:
- Già thì có cái tình già, mẹ cứ tự ép mình như thế, tội ba quá!
Nói xong, tôi lại nín thít chờ một câu nói nào đó của mẹ. Nhưng tất cả chỉ còn là sự tĩnh lặng của đêm.
***
Mẹ tôi có thói quen dậy rất sớm. Bất kể vào mùa nào. Nhà không có việc gì tất bật bà cũng xuống bếp từ khi trời chưa mờ sáng. Rút một đống rạ to tướng, mẹ nhóm bếp, khói bốc lên ngùn ngụt, len vào khe máng nhà, luồn xuống cả nơi tôi còn nằm ngủ. Tay quờ không thấy mẹ đâu, tôi lại dụi mắt đi tìm. Mẹ chưa kịp ngẩng đầu lên nhìn đã mắng yêu tôi: “Bố cha nhà cô, ngủ đi, dậy làm gì cho sớm?”. Rất nhiều lúc tôi đứng dựa vào cửa, ngắm nhìn mẹ từ xa, để ý mẹ có những hành động thật kì quặc. Bà lấy đôi đũa bếp khua lạch cạch xuống nền, miệng lại tằng hắng nho nhỏ. Vừa gảy lửa, mẹ tôi lại vừa gõ gõ đập đập mãi như thế. Thì ra, mẹ vẫn dành cho mình một không gian riêng để tự trút nỗi niềm. Lửa đang cháy bén, bùng lên, tôi không đủ kiên nhẫn đứng rình mẹ sau lưng nên mạnh dạn tiến lại gần:
- Mẹ giận gì ai sao mẹ không nói ra cho nhẹ nhõm?
Mẹ tôi bỗng tỉnh như thường:
- Có gì đâu con!
Nhưng tôi bảo, đã lén nhìn thấy mẹ hay thầm đay nghiến ai, về điều gì đó. Nước mắt mẹ tôi tự nhiên lăn ra:
- Mẹ muốn đi Bắc một chuyến nhưng tiền bạc còn đang túng quá, chưa đi được!
Mà đúng rồi, từ khi gia đình tôi về quê nội, tiền bạc tích lũy có được là bao? Vất vả nhất là việc đi tìm mộ của người anh liệt sĩ. Ðến khi gần bốc mộ con vào nghĩa trang, ba tôi mới tá hỏa vì bác Tư bảo là lúc anh tôi mất, được bọc trong tấm vải dù. Còn người nằm cạnh, là một ai đó không rõ tung tích. Cực nhọc quá chừng quá đỗi, mẹ tôi lại phải chạy đôn chạy đáo đi tìm người này, hỏi người khác. Mười phân rõ mười bà mới yên. Ấy thế mà, người chị cùng cha khác mẹ với tôi vẫn càm ràm: “Chẳng có dì, cha con tui sung sướng từ lâu rồi!”. “Dì vẽ chuyện chi cho thêm tốn kém”. Ðược cái ba tôi vẫn ôn tồn khuyên: “Nó không còn mẹ, lại chịu nhiều thiệt thòi từ bé, mình hơn thua với nó có được gì đâu? Nó cũng nuôi con nó, rồi nó khắc hiểu!”.
Ai nào hiểu? Bao nhiêu tình thương dành cho họ, đều bị phủ nhận hết. Tiền chu cấp thân nhân liệt sĩ, tháng nào ba tôi cũng nhận rồi chuyển cho mẹ con chị ấy. Hai anh trai tôi thì đều dở dang việc học, phải chăm bẵm vào việc cấy cày, nai lưng lên núi chặt cây về làm nhà cho con người khác ở, bảo mẹ tôi dằn lòng sao được? Tôi thầm trách ba, sao cứ bắt mẹ chịu đựng mãi thế? Vậy mà ở ngoài quê, cậu, dì cứ bảo mẹ con tôi sướng nhất.
Ngồi gảy lửa, mẹ lại khua, lại gõ đôi đũa bếp, lại “e hèm” tằng hắng một hồi lâu. Tôi muốn mẹ nói thẳng ra cho nhẹ lòng, để mẹ được cởi bỏ nỗi uất ức. Nhưng mẹ tôi lại ngăn: “ Mở miệng nói ra thì bị ba mày cho là hẹp hòi, ích kỉ, thiên hạ mà nghe được lại thêm mắm, thêm muối chuyện mẹ ghẻ con chồng, còn khổ hơn, con ạ!”.
Mẹ cứ đun, cứ gảy rạ rơm vào bếp. Tôi cứ ngồi tỉ tê với mẹ, cho đến khi tiếng gà gáy ran báo hiệu ngày mới đã tới.
Cậu tôi ở ngoài Bắc điện vào báo tin bà ngoại ốm nặng, mấy mẹ con định thu xếp ra quê, chăm ngoại vài hôm và sẵn thăm bà con ngoài ấy, ba tôi gọi cả lại và bàn: “Ðể lo xong đám cưới cho thằng Mạnh đã, rồi hãy tính chuyện ấy!.
Mạnh là đứa cháu ngoại đầu của ba tôi, đi làm xa và cưới vợ ở tận miền Tây. Gia đình phải xúm vào cùng lo. Nhưng nghe tin từ cậu, chưa biết bà ngoại đau ốm thế nào, lòng mẹ tôi như có lửa đốt. Bà gọi tới gọi lui mấy lần. Cậu, dì cũng khuyên mẹ tôi thư thư rồi ra cũng được, ở ngoài ấy anh em sẽ thay nhau lo cho bà. Ðám cưới thằng Mạnh đang diễn ra nhộn nhịp, nhạc nhã tưng bừng thì anh Bốn của tôi hớt hơ hớt hải đưa mắt tìm mẹ. Thấy con cứ nhốn nháo, ba tôi gằn giọng:
- Mày làm gì mà cuống cuồng lên thế?
Anh tôi ghé tai thì thầm:
- Bà ngoại sợ không qua khỏi đó ba!
Thôi chết, mẹ tôi lại đang ngồi trong phòng trang điểm để chuẩn bị tiếp họ nhà gái. Ba tôi cố điềm tĩnh:
- Khoan hãy báo với mẹ mày. Mấy ngày nay bà ấy lo đủ thứ, giây phút trọng đại của cháu mày cũng gần xong, để đấy ba tính!
Ðáp được chuyến bay cuối ngày, đi taxi thêm hơn năm mươi ki lô mét, mấy mẹ con tôi chưa đặt chân đến đầu ngõ nhà ngoại, đã nghe tiếng kèn trống ò e. Mẹ tôi khụy xuống, chỉ kịp thốt lên: “Mẹ ơi, mẹ ơi!”, người đã ngã ra nhưng giọng vẫn líu ríu: “Ôi mẹ ơi!”.
Gió như ngừng thổi, nhánh sông Ðào như ngưng dòng chảy trước cái bóng liêu xiêu, mỏng mảnh của mẹ tôi, giữa chập chùng khăn trắng đưa bà ngoại tôi về nơi an nghỉ cuối cùng.
Sau chuyến ấy, mẹ tôi trầm tính hẳn. Vẫn lọ mọ dậy sớm, vẫn ôm rơm rạ vào, lại nấu, lại đun. Nhưng bà không còn tằng hắng hay khua gõ đũa bếp như trước nữa, mà thường cúi mặt xuống đầu gối, thút thít, có khi ho đến tức ngực, tôi phải lấy tay mà vuốt cổ mẹ.
Ba tôi lẳng lặng nhìn hai mẹ con, xót xa lắm. Nhưng nếu ông lại gần, mẹ tôi sẽ hất ra ngay. Có lần, ông lấy cớ ôm vào mấy cây củi khô, bảo nhà thiếu gì củi mà cứ ngồi ôm cái bếp khư khư cho mệt, bà gằn: “Kệ tôi!”. Chẳng ai nói thêm với ai tiếng nào. Ba tôi chịu không nổi nhưng không biết làm cách nào để gần gũi, quan tâm vợ, ông cậy vào tôi.
Nhưng thời gian ấy, tôi đi học cách nhà cả trăm cây số, cuối tuần mới về. Mỗi khi tôi ở nhà, mẹ lại nói nói cười cười. Cha cứ lặng lẽ thêm...
Trời còn lạnh hơi sương, tôi muốn bước xuống bếp, chạy tới ôm lấy mẹ như thời mình còn bé, để được nghe mẹ nói “con ngủ đi, dậy làm gì cho sớm?” hoặc ngồi cạnh mẹ để trò chuyện to nhỏ. Nhưng lần này, còn cách xa bậu cửa, chân tôi khựng lại. Mẹ đang khóc, mẹ đọc tên bà ngoại hay sao ấy! Nhắc cả tên dì Tuyên nữa. Giọng mẹ nhỏ như rên: “Ở ngoài ấy, đừng có lội sông bắt ốc nữa, chân tay dặt dẹo, nhỡ có chuyện gì... Ngày nào còn cõng nhau đi chơi, lên xuống chở chị về, giờ thì tật nguyền như thế...”. Tôi hốt hoảng chợt nghĩ mẹ lẩm cẩm mất rồi. Sao lại ngồi lẩn thẩn nói một mình? Ban ngày ban mặt vẫn linh hoạt, tỉnh táo như thường cơ mà? Lời độc thoại của mẹ tôi tắt dần, chỉ còn tiếng thở nặng nhọc phả vào làn khói bếp. Tôi chạm nhẹ tay vào vai mẹ. Mẹ ngước mặt lên, hai con mắt đỏ hoe, sụt sùi.
Tôi cũng mếu máo:
- Mẹ có làm sao không hả mẹ? Ðừng giấu con chuyện gì! Ðừng làm con lo lắng quá!
- Ừ, rồi thì mày cũng lấy chồng mà xa mẹ nốt, con ạ! Hu hu!
Nói đến chuyện yêu đương của tôi, Khang hơn tôi hai tuổi, ít nói, chững chạc, biết quan tâm đúng nơi đúng chỗ và rất tài năng. Mẹ tôi vẫn tấm tắc khen Khang khi hai đứa còn học chung trường. Học đại học xong, Khang vào làm nhân viên ngân hàng tận Sài Gòn. Tôi nghe lời mẹ, về làm cô giáo tại trường cũ. Tưởng hai đứa tôi dừng lại ở tình cảm anh em, nào ngờ cứ thư từ, điện ra gọi vào suốt. Lòng mẹ tôi rối như tơ. Bấy nhiêu năm, mẹ đâu con đấy, bao đắng cay ngọt bùi có nhau. Giờ Khang lại bàn tính chuyện hôn nhân rồi kia kìa! Làm sao mà mẹ ngăn cản? Nếu tôi theo chồng vào trong ấy, cả năm biết có về thăm nhà hay không. Lúc sinh con đẻ cái, ai ở gần mà chăm bẵm? Mẹ tôi vẫn thường lo xa lo gần như thế. “Ðến khi mẹ chết, mày có về kịp không? Hay cứ biền biệt nơi đất khách quê người”. Lòng tôi lại dật dờ những nỗi đau cùng mẹ, lặng nhìn mái tóc mẹ đã bạc non nửa, trông như đuổi kịp tuổi ba tôi.
Ba tôi quyết định bán một lô đất mặt tiền, trên một trăm triệu, làm quà cưới cho con gái. Ðất ở quê như thế là có giá lắm rồi. Ông nài nỉ Khang chuyển việc về quê, để mẹ con tôi không bao giờ phải cách xa nhau. Ông làm tất cả những điều ấy vì muốn xoa dịu mẹ tôi, và có lẽ ông hiểu, nếu tôi không được ở gần ba mẹ, thì cuộc sống của ông bà sẽ tẻ nhạt biết chừng nào. Rồi mọi việc cũng yên.
Gần đến ngày giỗ của bà ngoại, tôi lại về ngủ với mẹ một đêm. Khang sẽ tự lo liệu rồi cha con anh sẽ chở nhau về sau. Tôi về trước, không phải vì việc săn tay áo lăng xăng sắm mâm cao cỗ đầy để dâng lên tưởng nhớ bà. Việc ấy đã có hai chị dâu tôi lo. Ngày thường, tôi vẫn tranh thủ chạy về bên mẹ, đem về vài thức ngon, nhưng chỉ dăm câu ba sợi là đã vội đi. Tôi sợ, nếu mình không về, mẹ sẽ đi ra đi vào, đôi mắt lại ngân ngấn nước nhìn lên di ảnh của bà ngoại, lầm rầm khấn vái. Ðêm trước ngày giỗ bà, mẹ con tôi vẫn ôm lấy nhau, nằm thủ thỉ cả đêm, có lúc cùng rúc rích cười, có lúc lại nghèn nghẹn nơi cổ họng. Câu chuyện dài gắn liền với những kỉ niệm không bao giờ cũ về người hai quê ngần ấy năm trời.
H.V