Thêm tư liệu về Ngô Tùng Châu
Nhân vật lịch sử Ngô Tùng Châu được xem là trung thần của nhà Nguyễn Gia Miêu, thân thế và sự nghiệp của ông được chép rất đơn sơ trong sử sách. Vừa qua, hậu duệ đời thứ 7 của ông - cụ Ngô Tùng Thuật, 83 tuổi - cung cấp một số tư liệu về Ngô Tùng Châu chưa được sách sử ghi chép.
Cụ Ngô Tùng Thuật - 83 tuổi, hiện đang ở thôn Thái Thuận, xã Cát Tài, huyện Phù Cát, hậu duệ đời thứ 7 thuộc phái nhứt của Ngô Tùng Châu - là người trực tiếp chăm sóc mộ phần và tế lễ Ngô Tùng Châu cùng vợ và hai người con trai của ông. Hiện nay, cụ Ngô Tùng Thuật đang giữ hai bản sắc phong (bản dịch) của Ngô Tùng Châu, bài vị của vợ ông, các cặp đối liễn của Thượng thư Bộ Binh - Phạm Liệu, Đào Tấn, Đào Phan Duân, Hồ Sĩ Tạo, Lâm Tăng Sum, Đốc học - Ngô Lê Tố và tư liệu dòng tộc ghi chép về thân thế, sự nghiệp Ngô Tùng Châu.
Theo tư liệu ghi chép của dòng tộc, Ngô Tùng Châu sinh năm Nhâm Thân - 1752, thân phụ là Ngô Tùng Trang, chánh quán làng Thái Định, phủ Phù Ly (nay là thôn Thái Thuận, xã Cát Tài, huyện Phù Cát). Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, Ngô Tùng Trang giữ chức Thơ lại phủ Phù Ly. Năm Giáp Thân (1764), phong chức Tri điền tuấn sự, được chúa Nguyễn điều vào huyện Gò Công, tỉnh Gia Định, mang theo 100 dân đinh vào khai khẩn ruộng hoang quy dân lập ấp. Tháng 7 năm Giáp Thân, Ngô Tùng Trang lãnh sứ mạng vào Nam cùng với dân đinh và đưa con trai Ngô Tùng Châu cùng đi.
Ở Gia Định, Ngô Tùng Châu theo học thầy Võ Trường Toản - một nhà nho ẩn dật, nổi tiếng học rộng, đức hạnh hơn người, được nhân sĩ trí thức lục tỉnh suy tôn là bậc “thầy chung”. Nhà giáo Võ Trường Toản có đến mấy trăm học trò, Ngô Tùng Châu là môn đệ xuất sắc nhất. Năm 1770, Ngô Tùng Châu gặp Võ Tánh kết nghĩa anh em; kết đôi cùng em của Võ Tánh là Võ Thị Lội vào năm 1772. Từ đó, Ngô Tùng Châu được chúa Nguyễn trọng dụng, giữ các trọng trách: Viện Hàn Lâm, rồi thăng Chế cáo, coi việc điền tuấn, Lễ bộ Tham tri, Đông cung Phụ đạo.
Năm 1799, Ngô Tùng Châu hiệp cùng Võ Tánh trấn thành Bình Định. Bị quân nhà Tây Sơn vây thành, năm 1801 ông uống thuốc độc tự vẫn. Năm Gia Long thứ 1 (1802), ông được phong tặng Tán trị công thần, Đặc tiến kim tử vinh lộc Đại phu, Trụ quốc, Thái tử Thái sư, Quận công, tên thụy là Trung Ý; rồi năm Minh Mạng thứ 12 (1831), truy tặng Tá vận Công thần, Đặc tiến kim tử vinh lộc Đại phu, Hiệp biện Đại học sĩ…
Sau khi mất, ông được nhà Tây Sơn an táng trong khu thành Bình Định (Hoàng Đế). 3 năm sau, mộ ông được nhà Nguyễn cải táng về quê, chân dãy Núi Bà thuộc thôn Thái Định, xã Cát Tài, huyện Phù Cát và xây lăng mộ khang trang. Cơn bão năm 1932, lăng của ông bị sập, được các nhân sĩ Bình Định tu sửa; sau đó bị chiến tranh tàn phá, hiện còn lại hai trụ cổng, bình phong và nền móng điện thờ.
Năm 1969, đạo “Cao đài tiên thiên” cùng dòng tộc Ngô xây lăng “Ninh Hòa Quận công tự” tại địa điểm mới: Cầu Hiệu, thôn Thái Định. Sau ngày giải phóng đến nay, lăng Ngô Tùng Châu được trưng dụng làm trụ sở UBND xã Cát Tài.
Với những tư liệu mới của dòng tộc cung cấp sẽ giúp chúng ta, những thế hệ mai sau hiểu về ông nhiều hơn.
NGUYỄN THANH QUANG