Tản mạn thúng chai
Những chiếc thuyền thúng tròn tròn, be bé chòng chành trên nước nhưng lại có thể cùng ngư dân đạp đầu những con sóng. Chiếc thuyền thúng ấy là vật bất ly thân và được xem như “cánh tay nối dài” của ngư dân trên biển.
Vận chuyển đồ ra thuyền bằng thúng chai.
1.
Quê tôi là làng biển xã Nhơn Hải, TP Quy Nhơn. Tôi lớn lên trong điệu lắc lư, bồng bềnh theo nhịp chuyển động của đôi tay cầm dằm bơi, ngoáy thúng của ông, cha, chú mình. Bởi có tính cơ động cao, nên thúng chai được ngư dân sử dụng thường xuyên. Như khi ra khơi đánh cá thì phải có thúng chai để bơi thả neo, bơi thả đèn dụ cá vào lưới, muốn di chuyển từ bờ ra đến thuyền thì phải có thúng chai, vận chuyển ngư lưới cụ, thực phẩm lên thuyền, chở người ra thuyền… thì thúng chai là phương tiện chính.
Các cụ cao niên trong xã cho biết, ở quê tôi chẳng có ai làm nghề đan thúng chai, mà mua từ các vùng biển Đề Gi (xã Cát Khánh, Phù Cát), Gành Đỏ (vịnh Xuân Đài, Phú Yên), xã Đại Lãnh (Vạn Ninh, Khánh Hòa) về để dùng.
Có kinh nghiệm trong nghề, anh Nguyễn Kim Hoàng (thôn Hải Đông) phân tích về ưu, khuyết điểm riêng của từng loại thúng theo xuất xứ: “Thúng ở vùng Đề Gi đan nong mốt, khi trét dầu rái thì kín các kẽ hơn, ít vô nước khi xuống biển nhưng nan yếu, nhanh hỏng, độ vững chãi khi chở nặng không cao. Thúng ở Gành Đỏ, Đại Lãnh thì được đan nong đôi, bền hơn, xuống nước chở vững hơn, tuy nhiên mau vô nước vì các kẽ nan khi trét dầu rái cũng ít kín hơn”.
Lão ngư Nguyễn Dư cho biết: “Chiếc thúng làm bằng nan tre truyền thống, mua về phải trét dầu rái cho kín mới xuống nước được. Ngày xưa, để trét thúng phải lên núi hái lá bồ lời hay cây xương rồng về giã lấy nhớt trộn với bột nhang nghiền nhỏ. Sau đó trét hỗn hợp này lên hai mặt trong, ngoài của thúng rồi phơi nắng cho khô, cuối cùng quét lớp dầu rái lên hai mặt thúng, để cho khô rồi xuống nước ra khơi”.
Ngày nay, để trét thúng, dân quê tôi lên núi hái dây tơ hồng giã nát lấy nhớt, trộn với phân bò thành hỗn hợp sền sệt rồi trét vào các kẽ hở của nan thúng, cả mặt trong và mặt ngoài. Phơi chiếc thúng ngoài nắng từ 1-2 ngày cho khô, sau đó mới quét dầu rái.
Thúng chai được tập kết về bến trên bãi biển chờ ra khơi.
2.
Thúng chai dùng để đi biển, chở dầu cho ghe, thức ăn, ngư lưới cụ và chở khoảng 8 - 10 người ra thuyền có chu vi từ 5m - 5,5m; loại nhỏ hơn thì dùng để đi lưới, đi câu. Giá mỗi chiếc thúng từ 1,3 triệu - 2,1 triệu đồng.
Ngày nay, ngoài thúng đan bằng tre, còn có thúng làm bằng composite, tiện lợi hơn cho ngư dân bởi mua về là sử dụng được ngay, bền, có thể gắn thêm động cơ để di chuyển làm nghề thả lưới. Nhược điểm của thúng loại này so với thúng nan tre là giá khá cao, dao động từ 5 - 8 triệu đồng/thúng, nặng, cồng kềnh, di chuyển khó khăn hơn, tính cơ động không cao, khi sửa chữa tốn kém hơn.
Ngoài thúng chai và thúng composite, ngư dân quê tôi còn “độ chế” thúng từ phuy nhựa, tập hợp các ưu điểm của thúng composite và hạn chế các khuyết điểm của chúng. Khi làm thúng, ngư dân cắt phuy ra thành nhiều miếng nhỏ, sau đó ghép lại với nhau bằng đinh tán theo hình xòe quạt và giáp vòng tròn. Vành thúng vẫn được làm bằng tre, sườn thúng dùng nan tre cố định, giữa các mối phuy nhựa ghép lại đặt thêm lớp xốp mỏng chịu lực, dùng dầu chai bóng trét cho kín để không vô nước. Loại thúng này độ bền cao, chi phí làm mỗi chiếc từ 3 - 5 triệu đồng, cơ động và di chuyển nhẹ nhàng hơn thúng composite. Ngoài việc làm thúng bằng phuy nhựa, ngư dân địa phương còn làm sõng chèo, thuyền máy nhỏ từ phuy nhựa, thay thế loại sõng chèo làm bằng nan tre và thuyền gỗ.
3.
Nhìn chiếc thúng chai di chuyển nhẹ nhàng trên nước, ai cũng nghĩ dễ lắm. Ấy vậy mà nếu bạn không phải dân biển, khi đứng trên thúng sẽ không vững mà nghiêng ngả, chòng chành, có khi chìm thúng, đừng nói tới việc dùng dằm bơi thúng. Nếu không quen và không biết bơi thúng, cho dù bạn có ngồi được trên thúng, khi cầm dằm bơi thì thúng sẽ quay vòng tròn đến nhức đầu. Qua đôi bàn tay điều khiển khéo léo của ngư dân, thúng chai được di chuyển bằng nhiều cách như: Bơi, ngoáy, lắc. Bơi là người chèo đứng hoặc ngồi trên vành thúng, cầm chiếc dằm đưa qua, đưa lại để di chuyển thúng. Ngoáy thúng thì cần phải cột một đai dây cố định vào vành thúng, đưa dằm vào đai và chèo đi. Lắc thúng thì không cần cầm dằm, chỉ cần ngư dân đứng trên thúng, hai tay vịn vành thúng, nhún người và nhịp nhịp lắc thúng theo hướng di chuyển, ấy thế mà chiếc thúng lắc lư trên nước và từ từ di chuyển đến thuyền.
Có thể nói, thúng chai là một “người bạn” của ngư dân trong những chuyến đi biển, giữ một vị trí không nhỏ trong đời sống, nghề nghiệp của ngư dân. Và đâu đó, khi từng xem tivi đưa tin về tình hình bão lũ ở quê hương mình, tôi lại thấy thấp thoáng bóng dáng của những chiếc thúng chai đang di chuyển giữa dòng lũ để cứu người, cứu trợ thức ăn cho người dân vùng lũ.
ÐOÀN NGỌC NHUẬN