Tăng cường công nghệ nông nghiệp:
Nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm
Tăng cường công nghệ nông nghiệp (TCCNNN) là một trong bốn hợp phần của Dự án Cạnh tranh nông nghiệp do Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ, đang được triển khai tại tỉnh ta. PV Báo Bình Ðịnh đã phỏng vấn bà Trần Thị Kim Oanh, Phó Giám đốc Ban quản lý Dự án CTNN tỉnh, về việc thực hiện hợp phần này.
* Xin bà cho biết tình hình thực hiện hợp phần TCCNNN ở tỉnh ta?
- TCCNNN là hợp phần hỗ trợ xác định và thực hiện các nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao các công nghệ sản xuất tiên tiến có hiệu quả về mặt chi phí, đáp ứng nhu cầu thị trường. Hợp phần này gồm ba tiểu hợp phần (THP): A1, A2, A3.
Thực hiện hợp phần TCCNNN là điều kiện tốt để nông dân nâng cao chất lượng nông sản, tăng thu nhập.
- Trong ảnh: Đơn vị tư vấn hướng dẫn nông dân phường Bùi Thị Xuân (TP Quy Nhơn) biện pháp phòng chống sâu bệnh hại xoài.
THP A1 chủ yếu nghiên cứu và phát triển công nghệ nâng cao khả năng cạnh tranh. THP này sẽ hỗ trợ việc xác định và thực hiện các nghiên cứu ứng dụng, phát triển và mở rộng các gói công nghệ đáp ứng trực tiếp nhu cầu nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và đáp ứng nhu cầu thị trường của chuỗi giá trị sản phẩm cụ thể. THP A2 phát triển các phương thức canh tác bền vững. THP này tài trợ các hoạt động thí điểm ở cấp cộng đồng nhằm tăng tính bền vững của các phương thức sản xuất nông nghiệp có tính cạnh tranh. Mục tiêu của THP sẽ đạt được thông qua việc phát triển và mở rộng các gói công nghệ áp dụng quy trình canh tác tốt (GAP), sử dụng và quản lý bền vững các nguồn tài nguyên. THP A3 giám sát và kiểm soát dư lượng hóa chất nhằm nâng cao năng lực quản lý trong việc giám sát và kiểm soát dư lượng hóa chất trên nông sản ở ba cấp độ: tỉnh, doanh nghiệp và nông hộ.
Từ lúc đầu triển khai dự án đến nay, tỉnh ta đã thực hiện 23 chủ đề của 3 THP, trong đó có 16 chủ đề đã thực hiện xong. Trong số 16 chủ đề này, Sở NN-PTNT đã nghiệm thu phê duyệt 12 quy trình kỹ thuật đầu tư chăm sóc, bảo vệ cây trồng, vật nuôi và đang xem xét phê duyệt 2 quy trình kỹ thuật của chủ đề khác đã tổng kết.
Hiện các đơn vị tư vấn đang thực hiện 7 chủ đề: Sản xuất hoa huệ giống chất lượng cao, sạch mầm bệnh; chuyển giao kỹ thuật sản xuất heo giống ngoại hướng nạc; chế biến phế phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn cho bò; chuyển giao kỹ thuật phòng trừ sâu bệnh hại trên cây cói; trồng cây thức ăn gia súc phục vụ chăn nuôi bò; quy trình kỹ thuật ICM trên vườn điều; quy trình kỹ thuật ICM trên vườn dừa.
* Các chủ đề đã và đang thực hiện có đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của chính quyền và nông dân?
- Có thể nói rằng, tất cả các chủ đề của hợp phần TCCNNN đã và đang thực hiện trên địa bàn tỉnh đều là những vấn đề bức xúc, cấp thiết ở địa phương, do ngành chức năng, chính quyền, nông dân và các doanh nghiệp đề xuất. Bởi vậy, chúng tôi đã lựa chọn và yêu cầu các đơn vị tư vấn thực hiện chủ đề phải đáp ứng yêu cầu về thực tiễn và khoa học, phù hợp với phong tục, tập quán canh tác của nông dân ở nhiều vùng miền khác nhau.
Thực tế cho thấy, trước khi xây dựng quy trình kỹ thuật, đơn vị tư vấn đã xuống cơ sở điều tra, khảo sát thực trạng về đất đai, mặt nước, tập quán, kinh nghiệm sản xuất, chăn nuôi. Tiếp đến họ tổ chức tham vấn cộng đồng để biết nông dân trong vùng hưởng lợi cần gì, thiếu gì. Trên cơ sở đó, xây dựng quy trình kỹ thuật cho từng đối tượng cây trồng, vật nuôi cụ thể. Tiếp đến lựa chọn địa điểm xây dựng mô hình trình diễn để chuyển giao kỹ thuật cho nông dân.
Quá trình chuyển giao kỹ thuật cho nông dân, đơn vị tư vấn điều chỉnh, bổ sung những gì chưa hợp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu từ thực tế. Tại các cuộc hội thảo đầu bờ, ngành chức năng của tỉnh, huyện, xã, phường, thị trấn và các nông hộ trực tiếp thực hiện chủ đề cùng thảo luận, đánh giá quy trình và hiệu quả kinh tế mô hình mang lại. Đơn vị tư vấn tiếp thu và tiếp tục điều chỉnh quy trình cho phù hợp. Sau đó, chúng tôi mới tổng kết chủ đề và Sở NN-PTNT tổ chức họp để xem xét phê duyệt quy trình kỹ thuật do đơn vị tư vấn thực hiện.
Nhìn chung, các đơn vị tư vấn thực hiện các chủ đề rất chặt chẽ và thiết thực, đáp ứng yêu cầu của nông dân. Thực tế cho thấy, hầu hết năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi và hiệu quả kinh tế các mô hình trình diễn đều cao hơn đối chứng, sản phẩm nông nghiệp có tính cạnh tranh cao hơn trước, góp phần tăng thu nhập cho nông dân. Bởi vậy hầu hết nông dân đều rất hài lòng với các hoạt động của hợp phần TCCTNN.
* Qua theo dõi các cuộc hội thảo, chính quyền và nông dân các địa phương mong muốn Dự án tiếp tục hỗ trợ nhân mô hình sản xuất, chăn nuôi ra diện rộng. Dự án có đáp ứng được yêu cầu nói trên không, thưa bà?
- Hiện chúng tôi đang đôn đốc và giám sát chặt chẽ những công việc cần thực hiện của các đơn vị tư vấn để yêu cầu họ thực hiện đúng những nội dung đã đề ra một cách kịp thời. Còn việc hỗ trợ chính quyền và nông dân nhân các mô hình ra diện rộng là rất khó, bởi Dự án CTNN tỉnh sẽ kết thúc trong năm nay và WB cũng không hỗ trợ kinh phí để duy trì và phát triển các hợp phần sau khi dự án kết thúc.
Theo tôi, việc nhân các mô hình ra diện rộng sau khi dự án kết thúc là việc làm hết sức cần thiết. Bởi vậy, ngành chức năng và chính quyền các địa phương cần phải quan tâm hơn đến vấn đề này. Nông dân cũng cần hiểu rằng, Nhà nước đã tạo cho mình chiếc “cần câu” để “câu cá”, không nên có tư tưởng ỷ lại sự hỗ trợ của Nhà nước. Bà con cần mạnh dạn áp dụng các tiến bộ kỹ thuật đã được chuyển giao vào thực tế, nhằm hạn chế rủi ro, tăng hiệu quả sản xuất.
* Cảm ơn bà!
PHẠM TIẾN SỸ (Thực hiện)