Hồi ức tháng 4
Cứ đến tháng 4, khi cả nước náo nức kỷ niệm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, non sông thu về một mối, ký ức hào hùng một thời lại trỗi dậy trong đại tá CCB Nguyễn Hữu Toán (phường Trần Quang Diệu, TP Quy Nhơn). Ông tự hào vì mình được tham gia vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975. Báo Bình Ðịnh xin giới thiệu cùng bạn đọc những dòng hồi ký của ông...
Đại tá Nguyễn Hữu Toán (bên trái) cùng đồng đội đang xem lại những hình ảnh, tư liệu về chiến thắng 30.4.1975. Ảnh: NGUYỄN PHÚC
Trong những ngày tháng 3, tháng 4 năm 1975, tin tức về diễn biến trên chiến trường miền Nam vẫn đều đặn đến, lòng chúng tôi như lửa đốt. Đơn vị chúng tôi (Tiểu đoàn 17 Công binh, Sư đoàn 320b, Quân đoàn 1) khẩn trương huấn luyện, ai cũng nung nấu quyết tâm ra sức rèn luyện để mau chóng trở lại chiến trường, tiếp sức đồng đội giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Bỗng nhiên, chúng tôi lại được lệnh về Ninh Bình đắp đê sông Đáy. Tôi thật sự hụt hẫng, một nỗi buồn mêng mang ùa về, ngày ngày đào đất đắp đê mà lòng canh cánh hướng về Nam.
Rồi cuối cùng cái ngày mà chúng tôi mong đợi cũng đã đến. Toàn tiểu đoàn được lệnh khẩn trương chuẩn bị hành quân vào Nam tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh. Những người lính chúng tôi hăm hở lên đường để kết thúc cuộc trường chinh vĩ đại của dân tộc.
Chúng tôi hành quân bằng ô tô vào Quảng Bình, lên đường 14 qua Kon Tum, Pleiku, rồi đến Buôn Mê Thuột. Trước mắt chúng tôi đâu đâu cũng rạng ngời những nét mặt tươi vui, phấn khởi của những người dân mới được giải phóng. Tận mắt chứng kiến hình ảnh ấy, chúng tôi mới thấu hiểu được nỗi khát khao tự do, hòa bình của người dân mất nước.
Sau hơn 10 ngày vừa hành quân, ngày 26.4.1975, chúng tôi tập kết tại Đồng Xoài (Bình Phước). Tại đây, cánh quân của chúng tôi được giao nhiệm vụ “thọc sâu, đánh thẳng vào mục tiêu cuối cùng là Bộ Tư lệnh Thiết giáp ngụy ở ngã 5 Gò Vấp”. Lúc này tôi là Trung đội phó Trung đội 1, được giao nhiệm vụ “chỉ huy bộ phận công binh tăng cường cho Lữ đoàn 202 tăng thiết giáp”, có nhiệm vụ khắc phục vật cản, dò gỡ bom mìn trên đường tiến công.
Rạng sáng 30.4, chúng tôi theo đường 16 tiến đến giải phóng quận lỵ Tân Uyên, rồi quận lỵ Lái Thiêu (Bình Dương). Sau khi diệt địch xong ở Lái Thiêu thì bất ngờ Sư đoàn 5 ngụy từ Bến Cát cắm cờ trắng chạy tới xin hàng. Thực chất chúng hòng đánh lừa để vượt qua đội hình ta, rút về Sài Gòn cố thủ. Với tinh thần cảnh giác, ta đã phát hiện được và triển khai đội hình, bắt sống toàn bộ quân địch.
Khi chúng tôi tiến đến đầu cầu Bình Triệu thì gặp phải sự kháng cự quyết liệt của địch. Từ phía nam cầu, chúng dùng pháo, cối bắn liên tục buộc ta phải tạm thời sơ tán lực lượng. Đồng chí Đại đội trưởng xe tăng Hoàng Thọ Mạc cùng đồng chí liên lạc vừa rời xe tăng thì bị thương. Đồng chí Mạc kiên quyết ở lại, nhường cho đồng chí liên lạc chuyển về phía sau để băng bó. Khi đồng chí liên lạc vừa được chuyển đi khỏi thì một quả đạn cối của địch nổ ngay cạnh, đồng chí Mạc hy sinh.
Chúng tôi tiếp tục đánh chiếm cầu Bình Triệu. Lúc này khoảng 9 giờ ngày 30.4.1975. Đội hình đến đầu cầu thì bị ùn tắc, ai nấy đều nóng ruột. Bỗng tôi nhận được lệnh “Hiện nay, ở giữa cầu, địch gài bộc phá, đội hình không thể qua được, bộ phận công binh nhanh chóng khắc phục”. Lập tức, tôi cùng 2 đồng đội lên cầu thì thấy ở giữa trụ cầu cách mặt nước khoảng 2 - 3m, địch gài một khối bộc phá lớn bằng thùng lương khô, tình thế vô cùng nguy hiểm. Trong khi đó ở phía nam cầu, pháo của địch vẫn liên tục bắn tới. Nếu địch cho nổ bộc phá, đánh sập cầu, chúng tôi sẽ không kịp tiến vào Sài Gòn đúng thời gian đã định. Trong giờ phút hiểm nguy, cận kề cái chết, nhìn nét mặt âu lo của hai người đồng đội, tôi hiểu ngay quả bộc phá có thể nổ bất cứ lúc nào. Một cảm giác lành lạnh chạy suốt sống lưng. Là người chỉ huy, tôi không thể chần chừ. Hình ảnh của bao đồng đội đã hy sinh, đặc biệt là hành động hy sinh của đồng chí Mạc để đồng đội được sống vừa mới đấy thôi, lại hiện lên lay gọi, thôi thúc. Ngày chiến thắng đã cận kề, dù phải hy sinh cũng không thể chần chừ làm uổng phí biết bao xương máu của đồng đội và nhân dân. Ngay lập tức, tôi theo trụ cầu leo xuống, rút kíp nổ, vô hiệu hóa quả bộc phá, rồi trèo lên báo cáo đã an toàn. Nhưng để đảm bảo an toàn tuyệt đối và tâm lý cho bộ đội, đồng chí chỉ huy ra lệnh nhất quyết phải đưa bộc phá lên. Dưới làn mưa đạn của địch, một lần nữa tôi lại xuống dùng dây cùng đồng đội kéo bộc phá lên.
Cầu thông, tôi thở phào nhẹ nhỏm. Toàn bộ đội hình nhanh chóng vượt qua, tiếp tục tiến công tiêu diệt địch. Đúng 11 giờ 30 phút, chúng tôi có mặt tại Bộ Tư lệnh Thiết giáp ngụy và cũng là lúc Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc.
Nhìn cảnh lính ngụy cởi trần, lầm lũi đi trên đường phố trở về gia đình, còn nhân dân mang ảnh Bác Hồ, cầm cờ giải phóng đổ ra hai bên đường vẫy chào quân giải phóng mà lòng tôi tràn ngập niềm vui, nước mắt cứ thế rơi. Mọi nẻo đường Sài Gòn - Gia Định như những dòng suối cờ hoa, tuôn trào và trôi đi trong niềm vui bất tận. Hy vọng và niềm tin dồn nén suốt mấy chục năm bỗng vỡ òa trong niềm vui chiến thắng...
NGUYỄN HỮU TOÁN