TRÊN DIỄN ĐÀN QUỐC HỘI
Góp ý Dự thảo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi)
Sáng 31.3, Quốc hội thảo luận tại hội trường về Dự thảo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi). Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Định Lý Tiết Hạnh cho rằng để bảo đảm tính khả thi của dự thảo Luật cần bổ sung quy định cụ thể về tiêu chí, điều kiện chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế và hành vi gây thiệt hại.
Về căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (Điều 7)
Khoản 3, Điều 7 Dự án Luật quy định một trong những căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế và hành vi gây thiệt hại được xác định tại văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường. Đồng thời điểm c, Khoản 2, Điều 13 quy định người bị thiệt hại có nghĩa vụ phải chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế và hành vi gây thiệt hại. Tuy nhiên, trong cả dự án Luật lại không có điều khoản nào quy định mối quan hệ nói trên được thể hiện, chứng minh qua những tiêu chí, điều kiện nào. Điều này sẽ dẫn đến những cách hiểu khác nhau khi áp dụng luật trong thực tế, nhất là gây khó khăn cho người bị thiệt hại trong việc chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế và hành vi gây thiệt hại.
Để quy định này mang tính khả thi hơn, tôi đề nghị cơ quan soạn thảo cần bổ sung quy định cụ thể về tiêu chí, điều kiện chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế và hành vi gây thiệt hại được quy định tại Khoản 3, Điều 7 của dự án Luật.
Về cách xác định tiền lương để bồi thường (các Điều 24, 25, 26 và 27)
Dự án Luật quy định cơ sở để bồi thường thiệt hại về vật chất là ngày lương tối thiểu vùng (Điều 24, 25, 26) và cơ sở để tính bồi thường thiệt hại về tinh thần là ngày lương cơ sở (Điều 27); giữa ngày lương tối thiểu vùng và ngày lương cơ sở có sự chênh lệch, khác biệt khá lớn. Theo tôi, cách xác định như vậy chưa đảm bảo được sự tương ứng, công bằng trong việc bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần cho người bị thiệt hại. Do đó, tôi đề nghị cơ quan soạn thảo nên cân nhắc và thống nhất cách quy định chung cho phù hợp.
Về hồ sơ yêu cầu bồi thường (Điều 41)
Về vấn đề này, Dự thảo Luật quy định rất nhiều loại giấy tờ, gây phiền hà cho người bị thiệt hại, trong đó có văn bản yêu cầu bồi thường. Do đó, tôi đề nghị Luật cần quy định theo nguyên tắc tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người bị thiệt hại, theo hướng: Người thi hành công vụ gây thiệt hại thì Nhà nước phải chủ động giải quyết bồi thường, không nhất thiết chờ đến khi người bị thiệt hại có văn bản yêu cầu bồi thường thì cơ quan của người gây thiệt hại mới thực hiện việc bồi thường.
Về nơi thực hiện trực tiếp xin lỗi và cải chính công khai đối với cá nhân (các Điều 56, 57 và 58)
Theo quy định tại các Điều 56, 57 và 58 thì nơi thực hiện việc trực tiếp xin lỗi và cải chính công khai là nơi người bị thiệt hại cư trú. Đề nghị dự thảo bổ sung nội dung quy định nơi bị gây ra thiệt hại cho phù hợp đối với trường hợp cá nhân bị gây thiệt hại ở một nơi nhưng sau đó cư trú một nơi khác. Nếu chỉ quy định nơi cư trú, nhưng người bị thiệt hại không đồng ý thì sẽ không đảm bảo quyền lợi, danh dự của người bị thiệt hại theo nguyên tắc công khai, bình đẳng, thiện chí. Do đó, đề nghị chỉnh sửa nội dung này như sau: “Trực tiếp xin lỗi và cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi bị gây ra thiệt hại theo yêu cầu của người bị thiệt hại” cho phù hợp hơn.
Về cấp phát kinh phí bồi thường và chi trả tiền bồi thường (Điều 61)
Khoản 6 Điều 61 quy định hết thời hạn 03 năm kể từ ngày nhận thông báo theo quy định mà người yêu cầu bồi thường không nhận tiền bồi thường thì sung công quỹ. Đề nghị dự thảo Luật bổ sung trường hợp bất khả kháng để áp dụng những trường hợp đặc biệt khi người được bồi thường do nhiều nguyên nhân khác nhau không thể nhận được tiền bồi thường trong thời hạn 03 năm.
SỸ NGUYÊN (ghi)