Ngậm ngùi chiêng Mỹ Thạnh
Làng Mỹ Thạnh (Nhơn Phúc, An Nhơn) từng là nơi cung cấp một lượng lớn chiêng để tạo nên sự độc đáo trong văn hóa “có một không hai” - không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Với chất lượng hoàn hảo, chiêng Mỹ Thạnh tạo nên dấu ấn và nét đặc trưng riêng biệt khiến những người hiểu biết về chiêng, đến nay mỗi khi nhắc lại vẫn còn tấm tắc trong nuối tiếc.
Làng chiêng bên bờ sông Côn
Theo sự hướng dẫn của người bạn, tôi tìm về xóm chiêng Mỹ Thạnh. Gần nhà xa ngõ, xóm chiêng chỉ cách đường bê tông xã khoảng hơn 100m đường chim bay nhưng tôi phải chạy vòng qua mấy con đường làng quanh co mới tìm được địa chỉ của hậu duệ chân truyền gốc thợ chiêng Mỹ Thạnh, nghệ nhân Nguyễn Văn Cư. Anh là đời thứ 4 nối nghiệp gò chiêng.
Người đem nghề gò chiêng về vùng đất ven bờ sông Côn này là Dương Bảy, cũng chính là ông cố của anh Cư. Dương Bảy vốn là một nghệ nhân đúc đồng tại làng nghề Đại Bái, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Khoảng giữa thế kỷ 19, ông nằm trong số lính thợ tài hoa nhất được tuyển về xây dựng cung đình, đại nội Huế. Về sau do loạn lạc, ông cùng hai người bạn nữa rủ nhau rời Huế vào Đập Đá (An Nhơn) lập nghiệp, rồi cải tên thành Nguyễn Văn Bảy. Được một thời gian, nhóm bạn ba người chia tay nhau. Một người ở lại Đập Đá với nghề thợ sắt chuyên làm cuốc, xẻng; một người lên Mỹ Yên (Tây Sơn) làm vàng bạc; còn Dương Bảy về Nhơn Phúc làm nghề đúc đồng, gò chiêng, neo gửi vĩnh viễn đời mình vào vùng quê này.
Ban đầu, khi về Mỹ Thạnh, ông Bảy chỉ làm những đồ dùng sinh hoạt cần thiết thường ngày cho bà con như: muỗng, xỉ, xoong, chảo, phèng la… Lợi dụng địa thế gần sông Côn, lúc bấy giờ giao thông đường thủy còn thịnh, ông mang các hàng hóa ấy đến các chợ ven sông, có khi ngược lên tận thượng nguồn Côn giang để chào hàng. Sau một lần lên Tây Nguyên, nhận ra nhu cầu chiêng, ông tìm cách chế tác. Sản phẩm của ông được đồng bào Tây Nguyên chấp nhận. Một mình làm không đủ đáp ứng nhu cầu, ông thu nhận thêm học trò, sau đó truyền nghề cho nhiều người. Rồi với hơn 20 hộ ở Mỹ Thạnh, làng nghề gò chiêng dần nức tiếng.
Anh Cư tâm sự: “Nhờ nghề gò chiêng mà nhiều hộ trong làng ăn nên làm ra, cuộc sống đủ đầy hơn, ai nấy cũng đều phấn khởi. Ngày ấy vui lắm, cách xóm trăm mét đã nghe tiếng búa đe, tiếng gò chiêng rộn rịp cả một vùng quê”.
Hồn chiêng
Anh Nguyễn Văn Cư chia sẻ: “Ông cố tôi mất là 16 tháng 4 âm lịch năm 1890, sau này con cháu lấy ngày đó là ngày giỗ tổ nghề. Nghề chiêng Mỹ Thạnh thịnh nhất là giai đoạn giữa thế kỷ 20, nhất là từ những năm 1930-1970. Ngày đó, đồng bào quan niệm, người sở hữu nhiều chiêng là người giàu có, là thịnh vượng”.
Nét độc đáo của chiêng Mỹ Thạnh là gì? Trả lời câu hỏi này anh Cư phân tích tỉ mỉ: Chiêng đúc dễ bị xước tay khi sử dụng, còn chiêng Mỹ Thạnh thì gò hoàn toàn bằng tay nên không có chuyện đó, rất êm. Ngay cả công đoạn lận ra “núm tim” cũng hoàn toàn làm bằng tay. Chất lượng của chiêng Mỹ Thạnh được đánh giá cao hơn hẳn loại chiêng đúc, tuổi thọ kéo dài cả trăm năm. Đó là lý do khiến sản phẩm vượt biên giới có mặt ở Lào, Campuchia!
Làng Mỹ Thạnh thường còn làm chiêng theo yêu cầu trực tiếp của khách hàng, họ đến đặt chiêng với đường kính của chiêng được tính bằng cách đo rất riêng: để ngửa bàn tay, xoãi thẳng, độ dài đường kính lấy từ cùi chỏ đến đỉnh ngón tay giữa. Chiêng đo ni mà làm để đúng y khuôn theo người, rất công phu.
“Xóm chiêng… bặt tiếng gò chiêng!”
Sau năm 1975, việc tiêu thụ khó khăn hơn trước rất nhiều. Chiêng Mỹ Thạnh không cạnh tranh lại với loại chiêng đúc Phước Kiều, giá bán rẻ hơn nhiều cùng một số lý do khác, nghề gò chiêng Mỹ Thạnh mai một dần. Các đơn hàng thưa thớt và “đứt bóng” hẳn từ những năm 80 của thế kỷ trước. Các nghệ nhân tâm huyết nhất với nghề cũng tìm đường khác mưu sinh. Hiện tại, số nghệ nhân còn lại của làng chiêng chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay, mà theo lời anh Cư, họ cũng đã “rửa tay gác búa”.
Anh Cư mang ra các loại đồ nghề làm chiêng được xếp vào một góc đặt dưới bàn thờ tổ đã bám bụi thời gian, lắc đầu xót xa. Tôi chắc mẩm rằng, đã lâu lắm những chiếc đe sắt, lò bễ, kéo sắt và gần 20 loại búa chuyên dụng cho việc gò chiêng kia đã có một giấc ngủ dài…
Festival Tây Sơn Bình Định 2008 như một niềm hy vọng lóe sáng để có thể “đánh thức” một nghề cổ truyền độc đáo mang đậm dấu ấn văn hóa. Lần ấy, nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan, nhiều nhà văn hóa và lãnh đạo cơ quan đến tận mắt chứng kiến anh Cư cùng các nghệ nhân tụ họp làm chiêng, họ đã có những “hứa hẹn” về một tương lai có thể đưa nghề chế tác chiêng hồi sinh trở lại. Thế nhưng, nỗi buồn cứ trượt dài khi ngay cả việc tổ chức cho đoàn chiêng Mỹ Thạnh tham gia vào Festival cồng chiêng quốc tế tại Gia Lai năm 2009 cũng dang dở.
Anh Cư chỉ tay vào phía góc nhà: “Còn hai tấm đồng tui mua 16 triệu đồng từ hồi năm 2009 với hy vọng góp một tiếng chiêng Mỹ Thạnh trong lễ hội cồng chiêng vẫn còn xếp xó bao năm nay chưa sử dụng bởi chẳng có một đơn hàng nào cả”. Tâm sự của anh Cư, người nghệ nhân cuối cùng của xóm chiêng Mỹ Thạnh như một tiếng chiêng buồn về thời vang bóng.
NGUYỄN VĂN PHI