TRÊN DIỄN ĐÀN QUỐC HỘI
Góp ý Dự án Luật chuyển giao công nghệ (sửa đổi)
Sáng 2.6, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV, Quốc hội thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của Dự án Luật chuyển giao công nghệ (sửa đổi). Dưới đây là ý kiến phát biểu của đại biểu Lê Công Nhường (Đoàn ĐBQH Bình Định).
Đại biểu Lê Công Nhường phát biểu góp ý Dự án Luật chuyển giao công nghệ (sửa đổi)
Dự thảo Luật chuyển giao công nghệ (CGCN) lần này đã hoàn thiện hơn nhiều so với dự thảo trình tại kỳ họp lần thứ 2. Dự thảo có nhiều nội dung mới, tập trung vào hướng thay đổi cơ chế, tạo điều kiện thuận lợi, hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, đó là tạo điều kiện cho doanh nghiệp (DN), nhà khoa học và công nghệ Việt Nam phát triển.
Về quản lý hợp đồng CGCN, tôi đồng tình với việc quy định các hợp đồng CGCN phải đăng ký để đảm bảo cơ quan quản lý nhà nước nắm được thực trạng CGCN, đặc biệt là từ nước ngoài vào Việt Nam. Thực tế tại địa phương cơ quan quản lý về khoa học, công nghệ hầu như không nắm được các luồng CGCN tại địa phương, do vậy không có số liệu đầy đủ để đánh giá về hoạt động này tại địa phương.
Về nội dung thẩm định công nghệ, dự thảo luật quy định một khoản về những vấn đề khác có liên quan tại điểm h, khoản 1 Điều 19 là không cần thiết, tôi đề nghị bỏ vì quy định như dự thảo luật không rõ ràng; thay vào đó bổ sung quy định: đối với dự án đầu tư có nguy cơ tác động xấu đến môi trường do sử dụng công nghệ thì phải được thực hiện như quy trình, thủ tục đối với dự án thuộc danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao.
Về tên Điều 50, Điều 51 của dự thảo luật, quy định như dự thảo luật là chưa hợp lý và không logic, tôi đề nghị sửa lại theo hướng như sau: Điều 50 - Tổ chức môi giới tư vấn, xúc tiến CGCN; Điều 51 - Tổ chức đánh giá, định giá và giám định công nghệ.
Về chế độ báo cáo hợp đồng CGCN, Luật CGCN năm 2006 có quy định về vấn đề này. Tuy nhiên, dự thảo mới không thấy quy định. Đây là nội dung cần thiết phải đưa vào, vì nếu không có chế độ báo cáo thì không biết được hàng năm thực tế các cá nhân, tổ chức, DN tại Việt Nam tiếp nhận công nghệ và triển khai như thế nào, có đúng với nội dung đã đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước hay không.
Về chương hợp đồng CGCN ở các Điều 29, 30, 31 nên bổ sung thêm các hình thức nộp và cấp phép qua mạng theo tinh thần Nghị quyết 36a của Chính phủ, ngoài việc nộp hồ sơ và cấp phép bằng văn bản giấy. Về Chính phủ điện tử là khẩn trương triển khai các giải pháp để cung cấp dịch vụ công trực tuyến, nhất là hiện nay thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Tôi đề nghị bên cạnh nộp văn bản giấy nên có hình thức nộp điện tử để đảm bảo điều kiện thuận lợi cho DN.
Ngoài ra, trong chương này tôi đề nghị bổ sung thêm một điều đối với công nghệ thiết bị đã được ngành quản lý khoa học hay một địa phương xét cấp phép thì khi triển khai công nghệ, thiết bị đó ở một DN địa phương khác thì chỉ cần nộp hồ sơ mà không cần thông qua Hội đồng thẩm định để giảm chi phí cho DN, nhà nước và xã hội. Bởi vì, sẽ có nhiều công nghệ và thiết bị sẽ chuyển giao lần lượt nơi này, nơi kia, lần nào cũng phải nộp và thẩm định thì gây tốn kém.
Điều 34, nghĩa vụ bảo mật trong việc cấp phép CGCN cấp giấy chứng nhận đăng ký CGCN. Tôi đề nghị chỉ bảo mật bản vẽ thuyết minh chi tiết công nghệ. Ngoài ra đơn đăng ký giấy phép và mô tả tổng quát công nghệ phải được công khai trên trang web của cơ quan quản lý khoa học để xã hội giám sát biết công nghệ nào vào Việt Nam và được cấp phép như thế nào từ những công nghệ phục vụ an ninh quốc phòng và quy định bảo mật. Vì theo giải trình của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường thì phần lớn các đại biểu đề nghị cần tăng cường giám sát của cộng đồng về công nghệ dự án đầu tư, nhất là giám sát của Mặt trận, các Hiệp hội chuyên ngành là Liên hiệp KHKT Việt Nam.
Về biện pháp khuyến khích CGCN và phát triển thị trường khoa học công nghệ. Đề nghị bổ sung thêm một điều để phù hợp với thực tế hiện nay là Bộ KH&CN và Bộ Tài chính ưu tiên bố trí kinh phí để tiếp nhận và vận hành các dự án CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam trong lĩnh vực khoa học và giáo dục mà không vì mục đích lợi nhuận. Ví dụ, giáo sư Trần Thanh Vân và Hội Gặp gỡ Việt Nam đã vận động các nhà khoa học và tổ chức khoa học ở châu Âu CGCN và vận hành trung tâm khám phá khoa học, nhà chiếu hình vũ trụ và viện nghiên cứu xuất sắc tại Bình Định, hình thành khu đô thị khoa học tại Quy Nhơn - Bình Định với tinh thần tự nguyện vì khoa học và giáo dục Việt Nam, tôi nghĩ trong thời gian tới các trí thức Việt Nam và nhà khoa học nước ngoài sẽ đóng góp nhiều hơn cho khoa học và giáo dục, nên chúng ta phải thiết kế một điều để tạo thuận lợi về nguồn lực tiếp thu CGCN mới này.
SỸ NGUYÊN (ghi)