Phòng và điều trị nhồi máu cơ tim
Nhồi máu cơ tim là một thuật ngữ y học để chỉ tình trạng hoại tử một phần cơ tim do giảm sút đáng kể lượng máu cung cấp đến một vùng cơ tim. Phần lớn nguyên nhân gây ra nhồi máu cơ tim là do sự lấp tắc một trong số các động mạch vành nuôi tim, do cục máu đông hình thành tại chỗ khi mảng xơ vữa bị nứt, vỡ ra.
Nhóm đối tượng nào dễ bị mắc bệnh? Tỉ lệ mắc nhồi máu cơ tim cao nhất ở nam giới tuổi trên 40 (trung niên và cao tuổi). Tỉ lệ này ở nữ giới theo độ tuổi thấp hơn ở nam song cũng tăng lên gần tương đương ở độ tuổi 5 đến 10 năm sau mãn kinh. Gần một nửa các trường hợp là gặp ở độ tuổi dưới ngưỡng 60-65.
Nhồi máu cơ tim gặp với tỉ lệ cao hơn đáng kể ở những người hút thuốc lá, béo phì, rối loạn mỡ máu, tăng huyết áp, đái tháo đường hoặc gia đình có người mắc bệnh tim mạch sớm trước tuổi 60. Không ít các trường hợp nhồi máu cơ tim xảy ra ngay cả ở người trẻ hoặc người không hề có bất kỳ yếu tố nguy cơ nào. Đa phần người bệnh nhập viện điều trị đều biết mình bị nhồi máu cơ tim.
Những triệu chứng điển hình? Triệu chứng điển hình và thường gặp nhất của nhồi máu cơ tim là cơn đau thắt ngực với cảm giác đau như bị đè ép, bóp chặt ở giữa ngực, diễn ra trong khoảng 5-15 phút (kéo dài hơn hẳn so với cơn đau thắt ngực ổn định thông thường), thường không quá 1 giờ. Cơn đau có thể lan lên vai, cổ, hàm hoặc lan dọc theo cánh tay, đặc biệt là tay trái. Có thể có kèm theo các triệu chứng như vã mồ hôi, buồn nôn, chóng mặt hoặc khó thở.
Nhiều trường hợp nhồi máu cơ tim lại biểu hiện như một tình trạng rối loạn tiêu hóa, hoặc chẳng hề có triệu chứng (nhồi máu cơ tim thầm lặng), hoặc hết sức đột ngột, biểu hiện bằng biến chứng rối loạn nhịp, ngừng tim hay đột tử... Những biến chứng tiềm tàng, đe dọa tính mạng, có thể xảy ra bất kỳ lúc nào khi nhồi máu cơ tim bao gồm rối loạn nhịp trầm trọng, suy tim tiến triển, sốc tim và ngừng tim...
Một vài trường hợp, vùng cơ tim bị hoại tử lớn, gây thủng buồng tim (vỡ tim) có thể gây tử vong hoặc đòi hỏi phải phẫu thuật cấp cứu.
Dấu hiệu sớm nhận biết là đau ngực (như mô tả ở trên) hay nặng ngực, khó thở khi đi lại... hoặc có những trường hợp có triệu chứng của rối loạn tiêu hóa: buồn nôn, nôn mữa (nhồi máu cơ tim vùng dưới).
Nên lưu ý những gì? Bệnh nhân khi đã được chẩn đoán, xác định bị nhồi máu cơ tim thì phải điều chỉnh lối sống thích hợp làm giảm nguy cơ xơ vữa động mạch nói chung và nguy cơ nhồi máu cơ tim nói riêng (kể cả nhồi máu mới hoặc nhồi máu lại) bao gồm việc bỏ hoàn toàn hút thuốc lá, tránh ngửi khói thuốc, ăn ít chất béo, ăn thêm hoa quả, giảm cân nặng nếu thừa cân, kiểm soát chặt chẽ huyết áp và đường máu trong giới hạn cho phép.
Nhiều thử nghiệm có quy mô rất lớn ở nhiều nước trên thế giới đã cho thấy việc dùng các thuốc chống ngưng tập tiểu cầu (aspirin...) và các thuốc hạ mỡ máu nhóm statin có hiệu quả tương đối rõ đối với phòng ngừa xuất hiện các biến cố tim mạch (không những nhồi máu cơ tim mà cả tai biến mạch não..).
Ngoài ra theo dõi sát, điều chỉnh kịp thời, phát hiện từ sớm và xử trí triệt để cơn đau thắt ngực cũng có vai trò hết sức quan trọng để hạn chế, phòng ngừa xuất hiện nhồi máu cơ tim.
BS NGUYỄN MINH TOÀN (Khoa Nội Tim mạch, BVĐK tỉnh)