Ông Đây “bò”
Đó là cái tên mà người dân thôn Phước Chánh, xã Mỹ Phong, huyện Phù Mỹ dành cho ông Dương Văn Đây. Chẳng phải như cách gọi cho một người khuyết tật đôi chân, chỉ quanh năm bò đi thoăn thoắt, mà hơn hết còn chứa đựng cả sự quý mến, khâm phục ý chí, nghị lực sống kiên cường, vượt lên số phận. Liệt hai chân từ năm lên 2, vẫn tham gia cách mạng; nay đã ở tuổi 68, ông vẫn làm việc, bởi như ông nói - “những lúc làm việc, tôi thấy mình đang sống”.
Phải qua năm lần bảy lượt hỏi thăm, tôi mới tìm ra nhà ông. Người ta bảo, phải hỏi nhà ông Đây “bò” thì mới tìm được, vì gần nhà ông cũng có một người trùng tên. Đó là ngôi nhà khuất nẻo trong xóm nhỏ, cuối con đường đất ngoằn ngoèo dưới chân núi Mỹ Sơn.
Có tật, có tài
2 tuổi, cậu bé Đây bị bại liệt hoàn toàn hai chân sau một cơn bệnh đột ngột. Từ đó, muốn đi đâu, cậu bé đều phải bò, ba mẹ và anh em phải vất vả thay nhau chăm sóc. Sinh ra trong gia đình nông dân nghèo ở vùng núi Mỹ Sơn (thôn Văn Trường, xã Mỹ Phong), việc đi lại càng khó khăn, nên cậu bé không được học hành.
Đến năm 10 tuổi, không thể cứ dựa dẫm mãi vào gia đình, Đây xin mẹ đi chăn bò. Cứ sáng ra, đàn bò đi trước, người chăn bò hai tay đeo dép cao su thoăn thoắt đuổi theo. Chiều xuống, lùa bò về chuồng xong, Đây còn phụ mẹ cơm nước, giặt giũ quần áo. “Thời ấy, mỗi ngày ông Đây bò được mấy cây số, hết đường bằng phẳng tới dốc đá, ven núi rừng, ngõ rào, ông cũng bò nhanh như đi bộ”, ông Nguyễn Ngọc Tài, anh họ của ông Đây, nhớ lại.
Ông Đây ngồi đó, treo người nhỏ thó trên chiếc ghế tựa, hai chân lủng la lủng lẳng, nhưng hai tay thì lên xuống nhịp nhàng theo nhịp kể, nét mặt vẫn rắn rỏi, cương quyết. Giọng ông chắc nịch: “Hồi đó, nhiều người không hiểu chuyện, cứ nói ra nói vào, rằng nhà tôi “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản”. Mặc kệ người ta nói, mẹ con tôi vẫn chung niềm tin son sắt vào lời của Bác Hồ, rằng “chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa”, nhưng rồi cũng đến ngày thắng lợi. Sau khi hai anh trai lần lượt hy sinh, gia đình tôi vẫn tiếp tục góp công góp sức cho cách mạng”.
Càng lớn lên, con người vốn chịu nhiều thiệt thòi ấy càng không ngừng muốn được khẳng định mình. 18 tuổi, ông bắt đầu đến với nghề mộc. Cũng chỉ thấy người ta làm mà tập tành, bắt chước thôi. “Có tật, có tài”, câu nói ấy như vận vào ông. Hai chân “có cũng như không”, mất hẳn thế thăng bằng khi làm công việc nặng nhọc này, nhưng ông chẳng hề thua kém một thợ lành nghề nào. Cưa, bào, đục… vẫn thoăn thoắt. Từ tủ, giường, bàn ghế đến cột kèo, xiên trính, ông đều thông thạo. “Phải tận mắt thấy mới tin ổng làm giỏi hơn cả người lành lặn”, ông Nguyễn Văn Có, hàng xóm của ông Đây, khẳng định.
Làm gần nhà, ông lục đục đeo đồ nghề lên cổ, tay chân mang dép, cứ thế mà bò đi. Làm xa, bạn nghề hú nhau ghé nhà chở đi. Sau này, ông có học trò đưa đón. Ông bảo, mình kén học trò, vì đâu có “thầy” nào đặc biệt như ông. Ông chỉ có 4 học trò, mà trò nào ra trò nấy, giờ thành đạt với nghề cả.
Ông bà có 5 người con, 4 đứa lớn chỉ học hết cấp 2, đến con gái út mới có bằng tốt nghiệp THPT. Bà Hà Thị Sanh, vợ ông Đây, tâm sự: “4 đứa đầu, mỗi đứa cách nhau chỉ 1 tuổi. Gánh nặng gia đình đè hết lên đôi tay của ổng. Nhà có một sào ruộng, tôi làm ra gạo chưa đủ ăn, lấy gì mà đỡ đần. Nên không chỉ làm thợ mộc, ổng còn làm thợ “đụng”, đụng đâu làm đó, từ sửa cày đến đan thúng, gò thùng. Con cái càng lớn lên, càng thấy ổng khổ nhiều quá. Đến khi chúng lập gia đình, sinh con đẻ cái, ổng vẫn không ngưng tay”.
Làm cách mạng bằng… hai tay
Với nhiều người, khiếm khuyết dễ dẫn đến thỏa hiệp với thiệt thòi. Nhưng ông Đây lại chọn cho mình một cách sống rất khác. Không chỉ lao động kiếm sống, bằng nhiều cách khác nhau, ông đã góp sức mình cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. “Có lẽ, do tôi hơi khác người, chỉ bò chứ không đi thẳng, nên địch có phần khinh thường. Nhờ thế mà tôi hoạt động trót lọt, chưa từng bị địch nghi ngờ, bắt bớ”, ông Đây hóm hỉnh kể.
Ông bảo, nhờ “lợi thế” hiếm có đó mà ông được cắt cử nghe ngóng tình hình địch ở thôn Phước Chánh và thôn Văn Trường, báo lại cho 2 anh trai Dương Văn Sỹ, Dương Văn Nhu (sau này đều là liệt sĩ). Những thông tin này sau đó được chuyển lên cấp trên phục vụ kế hoạch tác chiến của quân ta. Chân không đứng vững được, nhưng ông lại là tay bẫy cu có tiếng, hay mang “chiến lợi phẩm” cho bọn lính Ngụy nhậu. Thỉnh thoảng, có thứ gì ngon, bọn chúng cũng gọi ông đến đồn cùng “liên hoan”. Đặc biệt, đêm trước mỗi trận càn, lính Ngụy thường nhậu túy lúy, vì không biết ngày mai sống chết thế nào. Trong lúc chúng nửa tỉnh nửa mê, ông khéo léo hỏi chuyện sáng mai đi càn ở đâu, sẽ giết ai. Đây là những nguồn tin rất quý giá.
Không chỉ khai thác tin tình báo, nhiều lúc lên đồn địch chơi, tận dụng lúc chúng nhậu xỉn, ngủ say, ông còn trộm được súng. “Có lần, mang súng về nhà, tôi cột dưới thanh giường. Chưa kịp tẩu tán thì tụi lính đến chơi, có đứa còn nằm ngủ trên chiếc giường ấy, tôi cứ giả tảng đi chuẩn bị đồ nhậu cho chúng như thường lệ, mà hồi hộp muốn chết. Giờ nghĩ lại, sao hồi đó mình liều thế không biết”, ông cười ha hả.
Có cơ hội gần gũi, ông còn tỉ tê tâm sự, vận động lính Ngụy bỏ trốn. Trước khi rời hàng ngũ địch, một người lính còn để lại cho ông 1 mìn mo, 6 lựu đạn, 6 băng đạn. Ông bí mật đưa hết du kích xã. Thời ấy, vũ khí của du kích xã còn thiếu thốn, lâu lâu được huyện “bổ sung” cho mấy khẩu súng, có khẩu hư chỗ này, hóc bộ phận kia. Ông Đây lại ra tay sửa ngon ơ, nhất là cái khoản thay báng súng.
Không chỉ thu thập thông tin tình báo, ông còn là tay thả truyền đơn có hạng. Năm 1962 là thời điểm ông tham gia đắc lực nhất công tác này. Những tờ truyền đơn được ông gói cẩn thận vào những chiếc lá dông. Có khi ông bò đi, cứ tranh thủ nơi vắng người mà thả; có khi anh Năm Sỹ đèo bằng xe đạp, hai anh em thả truyền đơn dọc đoạn đường dài vài cây số.
Sau ngày đất nước thống nhất, ông vẫn cứ lầm lũi làm việc, chăm lo cho gia đình. Đến năm 1985, những người từng được ông giúp đỡ trong chiến tranh tìm về thăm, hỏi ra mới biết ông chưa được “ghi công” gì hết. Vậy là, chỉ một năm sau, ông được nhận Huân chương Kháng chiến hạng Ba của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước vì đã có công lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
“Ngày ba được nhận Huân chương, bà nội hãy còn sống, bà vui lắm. Năm ngoái, có mấy cán bộ ở ngoài Bắc vào tìm bà nội để cảm ơn nhưng bà đã không còn. Họ kể lại rằng, bọn Ngụy hay lui tới nhà nội mà không biết rằng đây cũng là nơi nuôi giấu, tiếp tế cho những người hoạt động “chìm” của ta. Bà nội và ba tôi hay treo khăn đỏ bên hiên nhà để báo cho quân mình biết địch đang ở trong nhà. Khi khăn trắng treo lên, nghĩa là các đồng chí được vào nhà nhận tiếp tế”, anh Dương Văn Điệp, con trai cả của ông Đây, kể lại.
“Lúc làm việc, tôi mới thấy mình đang sống”
Rồi thời gian khổ cũng qua, ông cũng xây được nhà, con cái lập gia đình, tuy không làm “ông to bà lớn” nhưng cũng có cuộc sống ổn định. Tuổi ngày càng cao, lại làm việc quá sức thời trai trẻ, nên đôi tay ông yếu dần, càng ngày khó khăn khi leo lên mấy bậc cấp. Thế nên, ông làm một cái lều nhỏ bên cạnh để tiện sinh hoạt. Ngày ngày, mấy đứa cháu nội cứ quấn quýt, tối đến cũng nhất quyết ngủ lại cùng nội.
Tuổi cao, sức khỏe không còn như xưa, nhưng ông vẫn chưa chịu ngơi nghỉ. Cô cháu nội Dương Thị Mỹ Trinh, học sinh lớp 11, Trường THPT Phù Mỹ 2, khoe: “Giường tủ, bàn ghế trong nhà một tay ông nội làm hết đó. Giờ, ông không đi làm cho người ta nữa, nhưng cháu nội cháu ngoại, đứa nào cần gì thì ông đều làm cho, giá sách, bàn học đủ cả”.
Rời căn lều của ông, tôi vẫn không thôi nghĩ ngợi về những lời tâm sự của một người đàn ông luôn hăng say với công việc, cả đời người chưa từng ngại ngần, hụt hẫng trước số phận: “Mình còn đôi tay chắc khỏe là may mắn lắm rồi, nên cứ phải làm việc, để kiếm sống, đỡ đần gia đình. Và những lúc làm việc, tôi thấy mình đang sống”.
VĂN TRANG - LÊ KIỂU
Bài viết nên nói về cuộc sống hiện tại của ông nhiều hơn nữa, để thấy được cuộc sống của người tàn tật khó khăng như thế nào.