Giãn phế quản - triệu chứng và cách phòng
Ở Việt Nam, giãn phế quản là một trong 3 bệnh hô hấp gây ho ra máu thường gặp (lao phổi, ung thư phổi và giãn phế quản). Mỗi tháng, Khoa Nội, BVÐK tỉnh, có khoảng 5 -10 bệnh nhân giãn phế quản đến điều trị.
Giãn phế quản là tình trạng gia tăng khẩu kính phế quản liên tục, vĩnh viễn không hồi phục của một hoặc nhiều nhánh phế quản có đường kính trên 2mm. Triệu chứng thường gặp của giãn phế quản là: Ho khạc đàm nhiều, đàm có mủ hôi, khi để lắng đàm có 3 lớp: lớp trên là bọt; lớp giữa là nhầy mủ; lớp dưới là mủ đục. Ho ra máu lặp đi, lặp lại, kéo dài. Ðau ngực, khó thở. Sốt khi bị nhiễm khuẩn hô hấp. Phổi có âm thở bất thường. Da xanh tím, móng tay khum, ngón tay dùi trống nếu bệnh diễn tiến kéo dài có suy hô hấp, tâm phế mạn (bệnh tim do phổi).
Nguyên nhân gây giãn phế quản thường gặp nhất là nhiễm khuẩn ở phổi, bao gồm các vi rút (như vi rút cúm) và vi khuẩn (như tụ cầu, lao...); một số nguyên nhân khác như sặc thức ăn hoặc vật lạ vào phổi, hít phải dịch acid dạ dày (bệnh trào ngược dạ dày - thực quản), bệnh xơ kén phổi, suy giảm miễn dịch...
Giãn phế quản nếu không được điều trị tốt sẽ dễ bị các đợt nhiễm khuẩn dẫn đến viêm phổi thùy, phế quản phế viêm, áp xe phổi, tràn dịch màng phổi; diễn tiến kéo dài có thể dẫn đến suy hô hấp, tâm phế mạn. Ho ra máu có thể rất nặng, lượng máu mất nhiều đe dọa đến tính mạng người bệnh.
Ðể phát hiện sớm bệnh giãn phế quản, người bệnh cần đến khám bác sĩ khi có những dấu hiệu lâm sàng như đã nói ở trên. Ngoài khám lâm sàng, các bác sĩ sẽ thực hiện thêm các thăm dò cận lâm sàng như xét nghiệm đàm, X - quang ngực, CT - scanner ngực, đo hô hấp ký, nội soi phế quản... để xác định bệnh.
Tùy mức độ ho ra máu, suy hô hấp, nhiễm khuẩn mà bác sĩ sẽ có các biện pháp điều trị thích hợp. Nói chung, việc điều trị bao gồm: Kháng sinh để chống nhiễm khuẩn; dẫn lưu đàm, thuốc làm loãng đàm; thuốc giãn phế quản khi cần; oxy liệu pháp; điều trị cầm máu khi có ho ra máu.
Phế quản đã bị giãn trong bệnh giãn phế quản không thể hồi phục lại. Vì vậy việc điều trị sớm và triệt để các nhiễm khuẩn hô hấp cũng như phòng bệnh là rất quan trọng.
Ðể phòng bệnh, tốt nhất không hút hoặc bỏ hút thuốc lá, thuốc lào, tránh môi trường có nhiều bụi khói; giữ vệ sinh răng miệng, tai - mũi - họng thật tốt. Ðiều trị triệt để các ổ nhiễm khuẩn vùng tai mũi họng, răng miệng, các bệnh về đường hô hấp như viêm phế quản cấp, áp xe phổi. Tiêm phòng cúm hàng năm để đề phòng những đợt bội nhiễm của giãn phế quản. Ðiều trị sớm lao sơ nhiễm ở trẻ em. Ðề phòng và lấy sớm dị vật phế quản. Rèn luyện thân thể thường xuyên để tăng sức đề kháng của cơ thể. Giữ ấm cổ ngực, đề phòng các đợt bội nhiễm khi đã bị giãn phế quản.
TS. VÕ BẢO DŨNG
(Trưởng khoa Nội, BVĐK tỉnh)