Viết tiếp những bài học từ Lê Ðại Cang
Cuộc đời Lê Ðại Cang (còn viết là Lê Ðại Cương, tự Thống Thiện, hiệu Kỳ Phong, biệt hiệu Cư Chính Thị, sinh năm Tân Mão - 1771, mất năm Ðinh Mùi 1847, quê ở thôn Luật Chánh, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước), từ năm 31 tuổi cho tới năm 72 tuổi, là cuộc đời một người làm quan bôn ba, lận đận, thăng trầm. Nhưng là cuộc đời một ông quan mà đời sau phải kính nể, học tập.
Người dân đến dâng hương lăng mộ Lê Đại Cang tại thôn Luật Chánh, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước. Ảnh: VĂN LƯU
Ðó là tấm gương của một quan chức tận tụy vì dân vì nước, trên tuân mệnh vua, dưới cốt an dân, làm điều tốt điều lợi cho dân, kể cả những người dân Cao Miên (Campuchia). Với một nhân cách lớn như Lê Ðại Cang, ta có thể rút ra được rất nhiều bài học. Năm 2012, trong một bài viết, tôi đã rút ra được 3 bài học từ Lê Ðại Cang. Nay xin rút thêm mấy bài học nữa. Ðã nói là rút ra bài học, thì trước nhất là rút ra cho mình, để mình có thể tự học theo hay tự răn.
Bài học về tôn trọng chủ quyền của lân bang
Ðây thực chất là bài học lớn về đối ngoại, cũng là bài học cho những nhà chính trị. Với quốc gia láng giềng, dù họ còn nhỏ bé, nhưng họ có nền độc lập của họ, có chủ quyền của họ, thì phải tuyệt đối tôn trọng. Chuyện quốc gia lớn “ăn hiếp” quốc gia nhỏ hơn, mưu đồ lấn chiếm, bá quyền, trục lợi từ quốc gia láng giềng, bất chấp luật pháp quốc tế ngay từ thời Lê Ðại Cang đã diễn ra thường xuyên.
Bấy giờ, vua Minh Mạng đã hành xử với nước láng giềng nhỏ hơn theo đúng kiểu nước lớn hành xử với nước nhỏ. Ở thời đó, hành xử như vậy của Vua thì ít người thấy không chấp nhận được. Hầu hết đều tán đồng, vì ngay nước mình cũng bị nước lớn hơn ức hiếp kia mà. Nhưng Lê Ðại Cang thì nghĩ khác!
Sử sách cho biết, Lê Ðại Cang thuộc số ít những triều thần nhà Nguyễn không thống nhất chính sách bảo hộ Cao Miên bằng cách thủ tiêu nền độc lập của họ, biến nước này thành một địa phương của nước ta. Làm sao mà ngay từ thời ấy, Lê Ðại Cang đã nghĩ được như vậy? Chính vì ông đã từng làm quan ở một tỉnh biên giới, đã từng quan hệ mật thiết với lân bang, sống không cách biệt với người dân lân bang, sống trung thực và nhân ái để họ tin mình, nên ông thấu hiểu nguyện vọng độc lập và ý thức chủ quyền của họ. Cũng vì ông là người xả thân bảo vệ chủ quyền và nền độc lập của Việt Nam, nên không bao giờ mong muốn cai trị người khác bất chấp nguyện vọng độc lập của người ta.
Khu Đông Tuy Phước. Ảnh: Minh Đức
Với lịch sử đương đại, quan điểm này của Lê Ðại Cang đặc biệt chói sáng. Nói theo ngôn ngữ bây giờ, phải “vừa hợp tác vừa đấu tranh” chứ không được dùng vũ lực để thôn tính. Chính Lê Ðại Cang đã đề nghị chọn quan lại người Miên thực hành chính sự ở nước này cũng như giúp đỡ xây dựng quân đội Miên để làm nhiệm vụ bảo vệ đất nước của họ. Ðây là quan điểm ngoại giao và chính sự cực kỳ sáng suốt của Lê Ðại Cang, dù không được vua Minh Mạng chấp thuận, nhưng nó đã góp phần khiến tình hình biên giới giảm căng thẳng, và nêu cao được chính nghĩa của quốc gia Việt Nam trong quan hệ với láng giềng.
Bài học về biến thăng trầm thành từng trải
Những thăng trầm trong đời làm quan của Lê Ðại Cang thì bây giờ nhiều người đã biết. Nhưng lý giải làm sao khi hai lần bị “cách” xuống làm lính khiêng võng, mà Lê Ðại Cang vẫn bình thản như không, thì quả thực chẳng dễ.
Nếu trường hợp như thế rơi vào những vị quan bình thường khác, họ sẽ xiết bao đau khổ, và sẽ không bao giờ còn gượng dậy được nữa. Nhưng Lê Ðại Cang đã hai lần từ “vực thẳm” khiêng võng cho quan (có thể là quan nguyên ở dưới quyền mình) vượt lên, trở lại những vị trí trách nhiệm rất cao để tiếp tục phục vụ nhân dân, phụng sự triều đình. Ông không một chút oán thán, cứ “mình làm mình chịu” không dập đầu kêu oan, cũng chẳng cần phải “chạy” như nhiều quan chức ngày nay vẫn làm mỗi khi những tội lỗi của mình bị phát hiện.
Có được tâm thế đặc biệt như vậy, vì bình sinh Lê Ðại Cang không chỉ là người nghĩa khí, mà còn là người tuyệt đối trung thực. Không bao giờ ông đổ lỗi cho ai, cũng không bao giờ chối lỗi của mình, kể cả những “lỗi” nếu xem xét một cách công bằng thì không phải lỗi mà là công. Nhưng khi triều đình, cụ thể là vua Minh Mạng đã “bắt lỗi” thì Lê Ðại Cang bình thản chịu, và không chỉ chịu đựng, ông còn gắng sức “đoái công chuộc tội” bằng những công tích mà người đời khó tưởng tượng ra.
Mùa xuân năm Minh Mạng thứ 14 (1833) vừa nhậm chức được năm tháng thì Phiên thành (chỉ thành Gia Ðịnh) có loạn, giặc chiếm cứ lan tràn đến các tỉnh Ðịnh Biên, Long Tường, thế giặc đang lúc mạnh, Lê Ðại Cang cho lui quân sang Cao Miên, chờ viện binh. Ở đó, ông chiêu mộ thêm quân, huấn luyện và chờ thời cơ.
Trong lời dẫn của “Lê thị gia phả”, Lê Ðại Cang mô tả tỉ mỉ hơn tình cảnh của mình trong biến cố lớn này như sau: “Cuộc đời đã trải qua của tôi chưa hề gặp sự gian hiểm nào như lúc này. Nhưng gánh nặng biên cương, sự thất bại ở góc trời Ðông để mất thành An Giang trước đây tội không nhẹ. Thánh chỉ đến cách chức tôi nhưng cho “Ðái lãnh binh dõng quân tiền hiệu lực” (lãnh binh dõng ra trận phải đi trước lập công chuộc tội), tôi tuân chỉ. Sau một tháng thì được phục chức Binh bộ Viên ngoại lang kiêm Phó lãnh binh. Rồi dần dần phục hồi chức Án sát sứ, rồi Bố chính sứ, kiêm Lãnh binh. Trong vòng ba bốn tháng mà được ơn vua ban dày đặc như vậy cho nên khó nhọc mấy tôi không nề hà”.
Ơn vua nợ nước nặng hai vai, nhưng với Lê Ðại Cang, quan trọng nhất chính là việc giữ nhân cách của mình, một vị quan liêm khiết, khiêm nhường nhưng can đảm và dám chịu trách nhiệm. Những thăng trầm Lê Ðại Cang trải qua trong cuộc đời đã không hề quật đổ được ông, mà khiến ông trở nên từng trải đến kinh ngạc. Có thể nói, những nhân cách khiêm nhường mà lớn lao như Lê Ðại Cang, cùng lắm, chúng ta chỉ mới thấy được một phần rất nhỏ tầm vóc thực của ông.
Bài học về giữ vững niềm tin trong nghịch cảnh
Tôi lại xin trích một đoạn lời phát biểu của nhà thơ, nhà văn Nga vĩ đại Boris Pasternak trước Hội Nhà văn Liên Xô, khi người ta âm mưu khai trừ ông ra khỏi cái Hội mà ông và những sáng tác của ông đã mang lại vinh quang cho nó. “Tôi biết rằng, do những áp lực xã hội, vấn đề khai trừ tôi ra khỏi hội nhà văn sẽ được đặt ra. Tôi không chờ đợi ở các bạn sự công bằng. Các bạn có thể bắn tôi, đày ải tôi, các bạn có thể làm tất cả những gì các bạn muốn, tôi xin nói trước là tôi tha thứ cho các bạn. Nhưng các bạn đừng vội. Việc này sẽ chẳng đem lại cho các bạn hạnh phúc và vinh quang đâu. Các bạn hãy nhớ lấy, vài năm sau các bạn sẽ phải phục hồi cho tôi”.
Thực ra, phải ba mươi năm sau khi chết, Boris Pasternak mới chính thức được phục hồi tại nước Nga quê hương ông. Nhưng niềm tin ngay trong nghịch cảnh của Pasternak thì đã được khẳng quyết từ hơn ba mươi năm trước. Lê Ðại Cang, tất nhiên khác Pasternak, cả về thời đại lẫn quốc gia, nhưng niềm tin ngay trong nghịch cảnh giữa hai con người vĩ đại này thì rất giống nhau.
Lê Ðại Cang cũng đã có được niềm tin ngay lúc đời ông lâm nghịch cảnh, bị cách chức, thậm chí bị “trảm giam hậu”, bị buộc phải làm lính khiêng võng, phải đi tiên phong giữa trận tiền như một dạng “lao công đào binh”. Ngay những lúc ấy mà vẫn tin mình sẽ có ngày được phục hồi, có ngày trở lại, thì một là tự tin vào sự ngay lành của mình, hai là tin vào sự sáng suốt của vua.
Lê Ðại Cang may mắn đã có hai niềm tin ấy, và hai niềm tin ấy đặt đúng chỗ. Vua Minh Mạng đã chứng tỏ là một vị minh quân, dù không hề hoàn hảo. Mà có ai hoàn hảo trong cõi đời này, kể cả vua? Nhưng Minh Mạng đã nhận ra Lê Ðại Cang, và đã hai lần đưa ông từ vai lính khiêng võng trở lại vị trí quan đại thần. Tất cả cũng là vì lợi ích quốc gia, không một chút vị kỷ nào ở đây hết. Trước một cuộc đời như cuộc đời Lê Ðại Cang, người ta không chỉ kính phục mà còn có thể học hỏi nhiều điều từ đó.
THANH THẢO