Yên giấc nơi quê nhà
48 năm. Dằng dặc trong đời người. Cuối cùng, các anh chị cũng đã yên giấc tại nghĩa trang quê nhà. Thôi lạnh lẽo nơi núi rừng hoang vu.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Xưởng quân giới - Tỉnh đội Bình Định đóng tại xã Lơ De, huyện Vĩnh Thạnh (cũ), nay thuộc làng M6, xã Bình Tân, huyện Tây Sơn. Ngày 16.5.1969, máy bay B52 của địch quần thảo, dồn dập thả bom tại đây. 12/13 cán bộ, chiến sĩ có mặt lúc ấy đã hy sinh.
Thực hiện nghi thức an táng hài cốt các liệt sĩ tại Nghĩa trang liệt sĩ Tam Quan.
Ðau đáu một hành trình
Người duy nhất sống sót sau trận bom kinh hoàng đó là bà Đỗ Thị Hồng Hải. Hôm xảy ra sự việc, bà cố làm cho xong số lựu đạn được giao nên đi ăn cơm muộn. “Các anh chị ăn cơm về tôi mới ra khỏi hầm, đi chưa được bao xa thì hầm dính 3 lượt bom B52. Tôi bị thương nặng, hất văng ra xa. Sau trận bom là cảnh tượng hãi hùng, thi thể của các anh chị chẳng còn toàn vẹn, vương vãi khắp nơi”, bà Hải nhớ lại.
Lúc đó, bà Hải mới 15 tuổi. Hai hôm sau trận bom, bà trở lại hầm, đặt một viên đá lớn lên nấm mồ tập thể để đánh dấu. Sau cú sốc khủng khiếp ấy, bà vẫn tiếp tục tham gia cách mạng. Và khôn nguôi ám ảnh về những người đồng đội vẫn nằm lại nơi núi rừng. Sau rất nhiều nỗ lực, gần đây, bà và ông Đặng Hà Thụy - nguyên Chủ nhiệm Quân giới Tỉnh đội Bình Định (giai đoạn 1973 - 1975) mới thành công trong việc tìm kiếm lại nơi chôn cất hài cốt của 12 đồng đội.
“Phải mất 2 năm trời, chúng tôi đi lại 3 lần mới tìm được chính xác. Bá Ky - năm nay 83 tuổi, người làng M6, là một trong những người trực tiếp tham gia chôn cất, đã chỉ đúng địa điểm”, ông Thụy kể.
Sau khi xác định chính xác địa điểm, ngày 19.9, các lực lượng liên quan tổ chức cất bốc hài cốt liệt sĩ. Đoạn đường rừng hơn 6 cây số với nhiều con dốc dựng đứng là thử thách thật sự. Gần nửa số thân nhân liệt sĩ phải bỏ cuộc giữa đường. Thiếu tá Vũ Ngọc Lâm - Trưởng ban Chính sách (Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh) tâm sự: “Xúc động nhất là có những người lớn tuổi nhưng vẫn cố gắng đi đến cùng. Ai cũng biết sau trận bom đó thì chuyện hài cốt còn nguyên vẹn là không tưởng. Chúng tôi chỉ cất bốc được một số xương đùi, xương sọ, cùng vài vật dụng”.
“Giờ em mới được về”
Nghĩa trang liệt sĩ Tam Quan (huyện Hoài Nhơn) sáng 20.9 tràn ngập nắng. Trong nhà tưởng niệm, 12 hình hài nằm gọn gàng trong chiếc quách nhỏ. Bà Đỗ Thị Hồng Hải phủ lại lá cờ đỏ sao vàng cho nghiêm ngắn.
“Từ nay 12 liệt sĩ của chúng ta sẽ mãi mãi yên nghỉ trong nghĩa trang, trong tình cảm thương yêu vô hạn của đồng chí, đồng bào. Với tất cả lòng thành kính và tri ân sâu sắc, chúng ta cùng cầu cho linh hồn các đồng chí được siêu thoát, mát mẻ nơi chín suối, bình an trong cõi vĩnh hằng. Tổ quốc ta, nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn của các liệt sĩ”.
(Trích điếu văn của Phó Chủ tịch UBND huyện Hoài Nhơn Trương Ðề tại lễ truy điệu 12 liệt sĩ được tổ chức ngày 20.9)
Bà Trương Thị Bến (80 tuổi, ở khối 6, thị trấn Tam Quan) cùng em gái Trương Thị Điệp (75 tuổi) khó nhọc bước lên bậc thang. Nhận nén nhang từ tay tôi, hai bà lầm rầm nói chuyện với em trai - liệt sĩ Trương Quang Hòa. Đưa tay quệt nước mắt dàn dụa, bà Bến mếu máo: “Em xa các chị 48 năm rồi. Giờ, em mới được về đây, Hòa ơi!”. Bà Điệp cũng rưng rức khóc, khóc mãi đến khi nhấc tay đưa nắm đất xuống huyệt mộ.
Một trong số ít thân nhân liệt sĩ đi từ đầu đến cuối hành trình tìm kiếm, cất bốc và quy tập 12 hài cốt liệt sĩ về Nghĩa trang liệt sĩ Tam Quan là ông Phan Châu Thành - con trai của liệt sĩ Phan Văn Rõ. Sau giải phóng, gia đình nhiều lần tìm kiếm nhưng chẳng có tăm hơi. Chẳng lời lẽ nào diễn tả được niềm vui khi gia đình ông biết tin ngôi mộ tập thể đã được tìm thấy. “Cha thoát ly khi tôi chưa thôi nôi, ký ức về cha chẳng có gì rõ rệt. Thế nên, tìm được cha, lo cho cha chỗ yên nghỉ, tôi như thấy mình báo hiếu được cho cha”, ông Thành chia sẻ.
Danh sách các liệt sĩ hy sinh ngày 16.5.1969:
1. Ðào Duy A, SN 1944, ở An Hòa, Hoài Ân.
2. Trương Quang Hòa, SN 1944, ở Tam Quan, Hoài Nhơn.
3. Trần Cậy, SN 1935, ở Hoài Sơn, Hoài Nhơn.
4. Phạm Thị Dìn, SN 1951, ở Hoài Mỹ, Hoài Nhơn.
5. Nguyễn Kim Ngọc, SN 1952, ở Hoài Mỹ, Hoài Nhơn.
6. Trần Văn Hợi, SN 1952 (1947), ở Cát Tài, Phù Cát.
7. Nguyễn Tấn Ðạt, SN 1944, ở Hoài Sơn, Hoài Nhơn.
8. Phan Văn Rõ, SN 1942, ở Hoài Thanh, Hoài Nhơn.
9. Nguyễn Văn Nhiên, SN 1934, ở Bình Xuyên, Vĩnh Phú.
10. Nguyễn Xuân Quý, SN 1949, ở Thanh Oai, Hà Ðông.
(Có 2 liệt sĩ chưa xác định danh tính)
NGUYỄN VĂN TRANG