Sản xuất và tiêu thụ rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP:
Khắc phục khó khăn, mở rộng quy mô sản xuất
Trước tình hình sản xuất và tiêu thụ rau an toàn (RAT) theo tiêu chuẩn VietGAP của hợp phần RAT được chứng nhận thuộc Dự án Sinh kế nông thôn bền vững (DA SKNT) - do Cơ quan Phát triển quốc tế New Zealand (NZAID) tài trợ - đang gặp nhiều khó khăn, vừa qua, UBND tỉnh đã tổ chức hội nghị bàn biện pháp khắc phục, duy trì và mở rộng quy mô sản xuất RAT.
Sản xuất RAT theo tiêu chuẩn VietGAP nhằm góp phần bảo vệ môi trường, tạo ra sản phẩm an toàn để cung cấp cho người tiêu dùng…đã và đang được DA SKNT tỉnh hỗ trợ triển khai tại làng rau Thuận Nghĩa, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn và thôn Luật Chánh, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước.
Khó khăn đầu ra sản phẩm
Từ năm 2011 đến tháng 6.2013, nông dân ở thôn Luật Chánh và khối Thuận Nghĩa đã sản xuất được 361.386 kg RAT các loại và đã tiêu thụ 146.000 kg RAT được sản xuất, sơ chế theo tiêu chuẩn VietGAP với giá bán cao hơn giá các loại rau khác cùng chủng loại chưa được chứng nhận từ 10%-30%. Theo đánh giá của ngành Nông nghiệp tỉnh, sản xuất RAT theo tiêu chuẩn VietGAP đã tăng nguồn thu nhập cho nông dân, nhưng các nhóm nông dân cùng sở thích (NDCST) sản xuất RAT vẫn còn thụ động trong việc áp dụng quy trình kỹ thuật vào thực tế, sản lượng rau đưa vào sơ chế và tiêu thụ vẫn còn quá ít.
Từ năm 2010 đến nay, tại Thuận Nghĩa và Luật Chánh đã thành lập 6 nhóm NDCST sản xuất RAT theo tiêu chuẩn VietGAP với 130 nông hộ thực hiện 10 ha. NZAID cũng đã hỗ trợ kinh phí xây dựng 2 nhà sơ chế với năng lực 1.000 kg rau/nhà sơ chế/ngày. Ngành Nông nghiệp tỉnh cũng đã phối hợp tổ chức tập huấn hướng dẫn nông dân áp dụng quy trình đầu tư, sản xuất và sơ chế RAT theo tiêu chuẩn VietGAP; sản phẩm RAT đã được Trung tâm Chất lượng nông lâm thủy sản vùng II thuộc Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT) cấp Giấy chứng nhận VietGAP.
Ông Ngô Tùng Thu, Quản đốc DA SKNT tỉnh, cho biết: “Qua các cuộc hội thảo chuyên đề và hội nghị khách hàng về lợi ích của việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm RAT theo tiêu chuẩn VietGAP do BQL DA tổ chức, có 15 đơn vị (siêu thị, nhà hàng, khách sạn, bếp ăn tập thể) đã ký hợp đồng và biên bản ghi nhớ tiêu thụ sản phẩm RAT cho HTX và nhóm NDCST các địa phương. Song mối quan hệ làm ăn giữa các đơn vị với HTX và hộ sản xuất RAT chưa tốt”.
Ông Quách Văn Cầu, Chủ nhiệm HTXNN Thuận Nghĩa, cho biết: “Lượng rau sản xuất ra mỗi ngày ở Thuận Nghĩa là rất lớn, nhưng bạn hàng tiêu thụ RAT lâu nay là Co.opmart Quy Nhơn và Co.opmart Gia Lai chỉ nhận và bán từ 200-300 kg/ngày, nên phần lớn lượng RAT sản xuất ra đều được nông dân bán xô cho thương lái với giá ngang bằng hoặc cao hơn chút ít so với giá các loại rau khác cùng chủng loại chưa được chứng nhận. HTX không dám mua rau của nông dân với sản lượng lớn để sơ chế, cung cấp cho các siêu thị, và nông dân cũng không muốn bán rau cho HTX vì không muốn vướng vào thủ tục, chờ đợi đối tác trả tiền”.
Theo ông Đỗ Văn Sỹ, Phó Chủ tịch UBND huyện Tây Sơn, việc duy trì và mở rộng diện tích sản xuất RAT ở Thuận Nghĩa gặp khó khăn, một phần là do năng lực quản lý, điều hành và cách làm của Ban quản trị HTX còn hạn chế. Huyện rất quan tâm và đã chỉ đạo rất quyết liệt, nhưng việc thực hiện ở cơ sở chưa tốt.
Ở xã Phước Hiệp, việc giải quyết đầu ra sản phẩm RAT cũng đang là bài toán khó với HTX và các nhóm NDCST. Phần lớn sản lượng rau của nông dân sản xuất ra không đưa vào nhà sơ chế để sơ chế, đóng gói, gắn nhãn mác RAT để bán cho các siêu thị, nhà hàng mà được nông dân bán xô tại ruộng.
Tập trung khắc phục khó khăn, mở rộng quy mô sản xuất
Việc sản xuất RAT theo tiêu chuẩn VietGAP là xu hướng tất yếu trong sản xuất nông nghiệp, không những tăng thu nhập cho người sản xuất mà còn góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng, hạn chế ô nhiễm môi trường. Bởi vậy, thời gian tới tỉnh ta chủ trương mở rộng diện tích RAT tại các huyện Tây Sơn, Tuy Phước và Hoài Nhơn. Mục tiêu của tỉnh, trong năm 2013 ổn định diện tích sản xuất RAT 10 ha, sản lượng rau 200 tấn, tiêu thụ từ 140-160 tấn; năm 2014 tăng diện tích lên 15 ha, sản lượng 750 tấn, sơ chế và tiêu thụ 700 tấn.
“HTX không dám mua rau của nông dân với sản lượng lớn để sơ chế, cung cấp cho các siêu thị, và nông dân cũng không muốn bán rau cho HTX vì không muốn vướng vào thủ tục, chờ đợi đối tác trả tiền”
Ông Quách Văn Cầu, Chủ nhiệm HTXNN Thuận Nghĩa
Theo ngành chức năng và chính quyền các địa phương, để mở rộng diện tích sản xuất RAT, trước hết phải củng cố về mặt tổ chức và nâng cao năng lực điều hành của các HTXNN sở tại. Bên cạnh đó, tiếp tục quy hoạch diện tích đất tại Phước Hiệp, Thuận Nghĩa và tại một số xã chuyên sản xuất rau ở huyện Hoài Nhơn để sản xuất RAT, đồng thời tăng cường đào tạo, tập huấn và thành lập thêm các nhóm NDCST sản xuất RAT. Mặt khác, hỗ trợ các HTX và các nhóm NDCST quảng bá thương hiệu, tìm kiếm thị trường tiêu thụ. Ngoài việc tiêu thụ RAT tại các nhà hàng, siêu thị, trường học, doanh nghiệp, cần mở thêm các điểm bán rau tại các chợ trên địa bàn các huyện, thành phố. UBND tỉnh giao trách nhiệm cụ thể cho các cấp, các ngành, BQL DA trong việc quản lý, chỉ đạo và hỗ trợ các HTX, các nhóm NDCST sản xuất và tiêu thụ sản phẩm RAT.
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trần Thị Thu Hà khẳng định lợi ích nhiều mặt của việc sản xuất RAT, yêu cầu huyện Tuy Phước và Tây Sơn tiếp tục củng cố tổ chức, nâng cao năng lực điều hành của các HTXNN tham gia DA, đồng thời mở rộng thêm diện tích và các nhóm NDCST sản xuất RAT theo tiêu chuẩn VietGAP. Các HTX đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường tiêu thụ. Huyện Hoài Nhơn chọn địa phương tham gia DA, quy hoạch diện tích, lựa chọn đối tượng, trước mắt trong năm 2013 xây dựng 2 mô hình sản xuất RAT tại thị trấn Tam Quan và xã Hoài Thanh Tây.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trần Thị Thu Hà cũng chỉ đạo các Sở: GD-ĐT, Công Thương, Y tế có trách nhiệm hỗ trợ các HTX, các nhóm NDCST tiêu thụ RAT tại các siêu thị, nhà hàng, khách sạn, trường học, bệnh viện… Sở Tài chính và các đơn vị liên quan tham mưu cho UBND tỉnh phê duyệt cơ chế chính sách đầu tư, hỗ trợ sản xuất, sơ chế RAT. Chính quyền các địa phương nghiên cứu xây dựng các điểm bán RAT tại các chợ. Sở NN-PTNT tiếp tục xây dựng mô hình chuyển giao kỹ thuật sản xuất RAT cho nông dân, phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về lợi ích của việc sản xuất, tiêu dùng RAT theo tiêu chuẩn VietGAP đối với sức khỏe cộng đồng…
Bài và ảnh: PHẠM TIẾN SỸ