Tình cảm của nhân dân Liên Xô không phai trong ký ức của lưu học sinh Việt Nam
NGƯT-TS.Nguyễn Minh Châu
Ngày 7.11.2017 là ngày Kỷ niệm 100 năm Cách Mạng Tháng Mười Nga. Mỗi năm, cứ đến ngày Lễ trọng đại này, những Cựu lưu học sinh Việt Nam học tập ở Liên Xô trước đây, Liên bang Nga ngày nay có dịp họp mặt nhau, cùng nhau nhắc lại những kỷ niệm tốt đẹp của năm tháng thời tuổi trẻ gắn bó với đất nước có nền văn hóa lâu đời, những người thầy, cô giáo, nhân dân Nga nhân hậu, trung thực và bao dung.
Lưu học sinh Việt Nam học Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Kharcov
Liên Xô là một trong những nước đầu tiên trên thế giới công nhận và chính thức thành lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam (từ ngày 30.1.1950), đặt nền móng cho tình hữu nghị bền chặt và quan hệ hợp tác giữa hai nước sau này.
Trước năm 1990, Liên Xô là một trong những nước đã góp phần đào tạo nguồn nhân lực chính cho Việt Nam. Hơn 60 năm qua (từ năm 1953 đến nay) họ đã đào tạo cho Việt Nam trên 30.000 sinh viên đại học (sau này những sinh viên tốt nghiệp đại học ở Liên Xô đều được UNESCO và Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam công nhận là Thạc sĩ), trên 3.000 tiến sĩ, trên 200 tiến sĩ khoa học và khoảng 100.000 công nhân kỹ thuật, giáo viên dạy nghề, thực tập sinh.
Theo thống kê sơ bộ, tại thành phố Quy Nhơn có 89 người đã học tập và công tác trên 27 thành phố ở Liên Xô, trong đó gồm 48 nam và 41 nữ, đông nhất là ở Matscôva: 18 người, Kharcov: 11 người, Lêningrat: 9 người, Bracốp-Xibiari: 8 người, Chernhigốp: 6 người, Iarôxláp: 3 người, còn lại có 4 thành phố: 2 người và 15 thành phố 1 người và có 10 người không ghi rõ nơi học chỉ ghi chung học ở Liên Xô. Những người đến học sớm nhất từ năm 1961, là khóa Việt Nam đầu tiên của nhiều Trường Đại học, người đến học muộn nhất là năm 2003. Trong số này, người cao tuổi nhất là Thầy Dương Ngọc Anh, 84 tuổi, người trẻ tuổi nhất là em Huỳnh Công Tú, 34 tuổi, hiện là Phó trưởng phòng Đào tạo Trường Đại học Quy Nhơn.
Nhiều du học sinh tại Liên Xô, khi trở về Bình Định đã có những đóng góp lớn cho tỉnh nhà, thành công trong sự nghiệp, trong đó hơn 1/3 (32/89 người) có vị trí trong ban lãnh đạo đảng, chính quyền cấp tỉnh, đoàn thể, hội, sở ban ngành, trường đại học, cao đẳng nghề, giám đốc các doanh nghiệp và công ty trách nhiệm hữu hạn trong tỉnh.
Tôi là một trong số các Cựu lưu học sinh Việt Nam đó, may mắn được Nhà nước chọn cho đi học đại học năm 1961-1966 và nghiên cứu sinh năm 1975-1978 ở Liên Xô. Trường tôi học lúc đó tên là Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Kharcov mang tên Mac-Xim-Gorki, nay là Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Kharcov mang tên Karazin (nhà sáng lập trường – Vasili Nazorovich Karazin). Khóa học của tôi (1961-1966) gồm có 34 sinh viên Việt Nam và hơn 70 sinh viên Nga. Chúng tôi là những lưu học sinh Việt Nam đầu tiên đến học trường Đại học Tổng hợp này, được Nhà trường quan tâm, giúp đỡ rất nhiều. Họ bố trí sinh viên Nga ở chung với sinh viên Việt Nam trong ký túc xá để tiện việc giúp đỡ chúng tôi trong giao tiếp tiếng Nga và sinh hoạt. Họ dành riêng một khu vực Nhà ăn để phục vụ nhiều món ăn Việt Nam cho chúng tôi, vì họ sợ sinh viên Việt Nam không quen với các món ăn Nga, sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe học tập.
Tác giả (ngoài cùng, bên trái) chụp ảnh lưu niệm với các bạn sinh viên Nga
Ngôn ngữ dạy: Tiếng Nga. Tiếng Nga có 6 cách và 3 giống từ. Mỗi cách từng từ lại biến âm, nên rất khó đối với sinh viên ngoại quốc. Năm đầu tiên, chúng tôi vừa học văn hóa, vừa học Tiếng Nga. Mỗi lớp học Tiếng Nga có khoảng 10 sinh viên Việt Nam. Cô giáo dạy Tiếng Nga của lớp tôi tên là Marixa Alexâyevna, chồng bà là Giáo sư Vật lý, thương binh trong cuộc chiến tranh ái quốc chống Phát xít Đức (Đại chiến Thế giới lần thứ II). Chúng tôi có dịp đến thăm gia đình nhiều thầy, cô giáo ở đây, gia đình nào cũng có sự mất mát trong chiến tranh. Vì vậy, nhân dân Liên Xô rất thông cảm với hoàn cảnh chiến tranh và gian khổ của nhân dân Việt Nam. Họ coi chúng tôi như những người con trong gia đình và thường gọi thân mật chúng tôi là “ban-sôi man-trít” – “cậu bé trai lớn”.
Năm thứ nhất, Nhà trường phân công một sinh viên Nga kèm cặp, giúp đỡ một sinh viên Việt Nam học tập. Từ năm thứ hai trở đi, tiếng Nga của chúng tôi đã khá, có thể hiểu bài giảng của Thầy trên lớp và chúng tôi đã tự lực học tập hoàn toàn.
Mùa hè, chúng tôi được Nhà trường bố trí cho đi nghỉ mát một tháng ở trại hè, nhà nghỉ sinh viên gần biển hoặc đi lao động ở nông trường. Dù ở nơi nào, chúng tôi cũng luôn được sự chăm sóc chu đáo và được ăn uống đầy đủ, nghỉ ngơi, vui chơi thật thoải mái. Sau mùa hè ai cũng tăng vài cân.
Hướng về Ngày lễ kỷ niệm 100 năm Cách Mạng Tháng Mười Nga, năm nay chúng tôi họp mặt đông hơn, tất cả các anh, chị em Việt Nam ở thành phố Quy Nhơn đã có thời gian học tập và công tác ở Liên Xô. Mỗi chúng tôi đều có những kỷ niệm đẹp về đất nước, nhân dân Liên Xô. Tình cảm của các Thầy, Cô giáo và nhân dân Liên Xô mãi không phai trong ký ức của mỗi người.
Chúng tôi tin tưởng rằng mối quan hệ hữu nghị Việt-Nga ngày nay sẽ tiếp tục viết tiếp những trang sử tốt đẹp của mối quan hệ hữu nghị Liên Xô-Việt Nam trước đây trên tinh thần đối tác chiến lược, không chỉ vì lợi ích của nhân dân hai nước mà còn góp phần vì hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển ở khu vực và thế giới.
N.M.C