Góp ý dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cơ quan đại diện ở nước ngoài:
Cần mở rộng đối tượng điều chỉnh
Chiều 26.10, thảo luận tại tổ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, ÐBQH Nguyễn Hữu Ðức (Ðoàn ÐBQH đơn vị Bình Ðịnh) cho rằng, dự thảo luật cần mở rộng đối tượng điều chỉnh hơn. Báo Bình Ðịnh xin giới thiệu những điểm chính trong nội dung góp ý của đại biểu Nguyễn Hữu Ðức.
ĐBQH Nguyễn Hữu Đức phát biểu góp ý Luật CQĐD tại tổ.
Tôi nhất trí ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài (sau đây viết tắt là Luật CQĐD). Dung lượng sửa đổi, bổ sung 11 điều (trong tổng số 36 điều), bỏ một khoản tại Điều 8 như Tờ trình, tựu trung vào 9 nhóm vấn đề là phù hợp với Luật sửa đổi, bổ sung. Cụ thể các vấn đề như: nhiệm vụ lãnh sự; thông tin đối ngoại; kinh phí; quản lý dự án đầu tư; tiêu chuẩn thành viên cơ quan đại diện; việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cử, triệu hồi đại sứ; về bảo mật; chế độ thành viên cơ quan đại diện và trách nhiệm báo cáo công tác nước ngoài. Hồ sơ dự án Luật trình Quốc hội đáp ứng đầy đủ quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật...
Tuy nhiên, về phạm vi, nếu ”bó gọn” cơ quan đại diện do Bộ Ngoại giao quản lý thì chưa hoàn toàn hợp lý bởi thực tế có không ít đại diện ở nước ngoài thuộc các bộ như Bộ KH&CN, Bộ Công Thương, Bộ VH-TT&DL, Thông tấn xã Việt Nam, Bộ LĐ-TB&XH, cơ quan báo chí của Trung ương đang thực hiện chức năng, nhiệm vụ chính trị được giao. Các chủ thể này cũng thuộc phạm vi điều chỉnh theo Luật CQĐD.
Về quản lý các dự án, kinh phí của CQÐD
Về quản lý các dự án đầu tư xây dựng của CQĐD: Ngày 19.10.2017, Chính phủ có ban hành Nghị định số 117/2017/NĐ-CP quy định về quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước đối với một số hoạt động đối ngoại, trong đó có CQĐD Việt Nam ở nước ngoài. Những quy định có tính đặc thù chắc chắn phải điều chỉnh bằng Luật thì mới có giá trị pháp lý cao hơn. Bởi vậy, tôi tán thành với dự thảo Luật bổ sung quy định về nguyên tắc quản lý các dự án đầu tư xây dựng của CQĐD Việt Nam ở nước ngoài và giao Chính phủ quy định chi tiết về nội dung này tại khoản 3 Điều 16 dự thảo Luật.
Việc quy định về nguyên tắc cho phép áp dụng quy trình, thủ tục rút gọn đối với các dự án đầu tư xây dựng của CQĐD ở nước ngoài trong một số trường hợp cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu đặc thù, tính kịp thời về đầu tư xây dựng ở nước ngoài và khắc phục vướng mắc trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư xây dựng của CQĐD Việt Nam tại nước ngoài theo quy định của Luật Đầu tư công và Luật Đấu thầu. Song cần quy định các điều kiện chặt chẽ, tránh sơ hở, lợi dụng.
Về kinh phí hoạt động thường xuyên cho Bộ Ngoại giao để phân bổ cho CQĐD: Tôi tán thành ý kiến Ủy ban Đối ngoại nhất trí với quy định tại dự thảo Luật để tạo sự chủ động và xử lý kịp thời trong quá trình triển khai các hoạt động cụ thể mang tính đặc thù của lĩnh vực quốc phòng, an ninh và thương mại; nhất trí với loại ý kiến thứ nhất và đề nghị bổ sung quy định giao trách nhiệm cho các Bộ quản lý trong việc phân bổ kinh phí hoạt động thường xuyên dành cho các lĩnh vực quốc phòng, an ninh và thương mại tại nước ngoài, đồng thời báo cáo Bộ Ngoại giao để theo dõi chung.
Về tiêu chuẩn, độ tuổi, nhân sự, nhiệm kỳ của Ðại sứ
Về tiêu chuẩn của thành viên CQĐD và tiêu chuẩn Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Điều 17 sửa đổi, bổ sung quy định khá chi tiết các tiêu chí đối với chức danh thành viên CQĐD và Đại sứ đặc mệnh toàn quyền. Tôi nhất trí với nhiều quy định tại dự thảo Luật. Riêng đối với một số hoạt động của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài như công chứng... mà người tham gia là viên chức lãnh sự, viên chức ngoại giao nhưng không làm chuyên trách thì sẽ ảnh hưởng đến chất lượng công việc. Do vậy, đề nghị các đối tượng này cần được trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng hành nghề và các điều kiện cần thiết khác để bảo đảm yêu cầu công việc.
Về tuổi bổ nhiệm Đại sứ, dự thảo Luật quy định Đại sứ phải trong độ tuổi đủ để hoàn thành ít nhất một nhiệm kỳ công tác, trừ trường hợp đặc biệt theo quy định của Chính phủ. Về vấn đề này, cơ quan thẩm tra có hai loại ý kiến. Cá nhân tôi tán thành loại ý kiến thứ nhất. Do yêu cầu của công tác chính trị, đối ngoại và phù hợp thực tiễn về tuổi bổ nhiệm Đại sứ của nhiều nước trên thế giới nên cho phép bổ nhiệm Đại sứ đối với một số trường hợp đặc biệt không đủ độ tuổi đảm bảo trọn nhiệm kỳ công tác (36 tháng) nhưng có kinh nghiệm hoạt động đối ngoại lâu năm, có uy tín trong ngành ngoại giao, đủ sức khỏe để thực hiện nhiệm vụ Đại sứ tại một số địa bàn chiến lược và trong lúc chưa có người thích hợp để tiến cử làm Đại sứ. Tinh thần chung là không vận dụng mở rộng tiêu chí này.
Về nguồn nhân sự để xem xét bổ nhiệm Đại sứ, các thành viên CQĐD nên mở rộng, không nên chỉ bó hẹp trong cơ quan Bộ Ngoại giao, mà nên mở rộng đối với một số trường hợp đủ tiêu chuẩn và điều kiện làm việc ở CQĐD từ các cơ quan của Quốc hội, Ban Đối ngoại Trung ương...
Về kéo dài nhiệm kỳ Đại sứ: Trong điều kiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng thì mặt trận ngoại giao cũng diễn ra hết sức phức tạp và gay gắt với thuận lợi và thách thức đan xen, bởi vậy, chức danh Đại sứ vừa là vinh dự vừa là trọng trách cao cả. Về nguyên tắc, cũng như các công việc khác theo phân công, điều động của tổ chức, Đại sứ đã hết nhiệm kỳ thì về nước. Tuy nhiên, thực tế nếu có lý do bất khả kháng, do yêu cầu nhân sự cụ thể phải gia hạn thời gian đối với Đại sứ thì cũng nên hạn chế tối đa và đề nghị theo thẩm quyền thì phải trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, phê chuẩn.
SỸ NGUYÊN (ghi)