Tượng gốm Đất nung - Đỉnh cao Gốm cổ Gò Sành (tt):
Di sản Bình Định - một góc nhìn
NGUYỄN VĨNH HẢO
Trên mảnh đất Bình Định này, tự ngàn xưa, đã ủ sẳn một truyền thống của sự tiếp biến - hội tụ, tiếp nhận, và nâng chất lên một tầm mới. Cái truyền thống ấy như một sợi chỉ đỏ xuyên thấu qua những bước đi trong lịch sử một vùng đất, từ gốm và rồi sau này, còn gặp lại qua những di sản khác, như võ, hát bội và cả bài chỏi.
Bài 2: GỐM GÒ SÀNH TRONG “MÃ NGHỆ THUẬT” CHAMPA
Liệu từ những dáng gốm, ta có thể đọc trong đó dòng chảy không ngừng nghỉ của sự tiếp biến và hội tụ của một vùng đất?
Vua khỉ
Hãy đặt gốm Champa bên gốm Sa Huỳnh. Ít nhất vầ chất liệu, các nhà khảo cổ học đã đọc trong gốm Chăm sớm có ít nhất hai dòng: thô và mịn. Trong đó, theo Lâm Mỹ Dung (4), dòng gốm Champa thô chính là sự tiếp nối truyền thống gốm văn hoá Sa Huỳnh, dòng gốm mịn mang phong cách gốm ngoại sinh (từ phía Bắc và Nam). Còn chúng tôi, với cách tiếp cận của những người yêu gốm, lại đọc từ gốm một cuộc “cách mạng lửa”. Đó là khi, kỹ thuật làm gốm theo chân những thợ gốm đời Tống sau thế kỷ XI, do những biến động lịch sử, chuyển cư đến Vijya. Với sự giúp đỡ của những người Hoa này, người Champa đã học được kỹ thuật xây lò ống, lò nung cấu tạo theo chu trình khép kín, kỹ thuật chế tác gốm tráng men, và nhất là kỹ thuật lửa, để kết hợp với truyền thống gốm bản địa làm nên cuộc “cách mạng lửa” trong sản xuất gốm ở vùng kinh đô Champa. Như vậy, chủ nhân của những lò gồm ấy chính là cư dân Chăm, bởi kỹ thuật dẫu ngoại sinh, một khi đã được thẩm thấu vào hồn Chăm, tạo tác qua đôi bàn tay của thợ gốm bản địa, hẳn nhiên những sản phẩm sẽ mang tâm hồn Chăm. Yếu tố quyết định ở đây, nhất là với những tạo phẩm mang tính nghệ thuật như gốm và tượng gốm, hẳn nhiên là tâm hồn và sự tạo tác chứ không phải là nguồn gốc của kỹ thuật.
Cách tiếp cận ấy của chúng tôi, phải chăng cũng gần khớp với cách tiếp cận khảo cổ học, khi Lâm Mỹ Dung cho rằng: “Sự khác biệt (gốm Sa Huỳnh và gốm Champa) trước hết xuất phát từ những thay đổi trong cấu trúc xã hội, từ xã hội dạng lãnh địa sang dạng nhà nước; Sự thay đổi trong lĩnh vực đời sống tinh thần, táng thức thay đổi, tiếp nhận những yếu tố tĩn ngưỡng, tôn giáo mới…và sự thay đổi trong cường độ và xu hướng tiếp xúc, tiếp nhận những yếu tố văn hóa ngoại sinh…” (4). Và cũng nhờ những yếu tố ngoại sinh đã kết liền vào trong văn hóa Champa, mà gốm Chăm được nâng lên một trình độ mới, từ những thô tháp của vật dụng hàng ngày đến những vật phẩm được đổi trao trên thị trường thế giới và tiếp đến một bậc nữa, thành những tạo phẩm dâng cúng thần linh - những tượng gốm.
Đi trọn một hành trình đất qua lửa, gốm đã không chỉ còn là tiếng nói của vỏ hình gốm, mà còn là hóa thân một phần của tâm hồn Chăm. Chẳng là đến thời kỳ Vijaya, những đền tháp cũng như vươn mình lên, ngự trên đồi cao; thu lại trong ngôn ngữ của hình khối, vút thành những mũi giáo, nét vươn của tầng diểm mái như một khẳng định cho khí chất mạnh mẽ và bản lĩnh. “Tiết tấu biển cả”, dữ dội và cuồng say - đó là một sắc thái đậm nét của tâm hồn Chăm thể hiện trong kiến trúc và điêu khắc.
Tượng thần hộ pháp.
Nhưng phần khác của hồn Chăm, những u trầm, suy niệm, người xưa đã dành trọn cho gốm. Tận dụng nguồn đất sét trắng địa phương người Chăm đã pha thêm đất sét đỏ, bã thực vật và cát với tỷ lệ thích hợp để tạo độ sâu cho sắc gốm, tăng độ bền cho sản phẩm. Với xương gốm nặng đục, dày; độ sâu của sắc gốm được gia thêm bằng những nét trang trí đơn giản: hoa văn sóng nước, hoa lá, cánh sen, dây cúc… phủ một màu men dày, đều và nhiều diêu biến. Cộng vào đó là sự thăng hoa của kỹ thuật. Sắc độ men đa dạng; cấu trúc lò hình ống với kiểu đốt lửa độc đáo: lửa đốt từ bầu lò, dẫn qua ống, phả lên trần; toả nhiệt đều và ít gây bụi bám trên sản phẩm. Tất cả hợp thành một vẻ độc sáng riêng cho gốm Bình Định: khác với cái cầu kỳ, độc đáo của gốm Tàu; khu biệt với vẻ giản dị, chắc khoẻ, phóng khoáng, đầy chất dân dã của gốm Việt.
Vậy là mhững sản phẩm ấy, từ chỗ là những tạo phẩm đơn thuần, tiếp thu thêm kỹ thuật mới ngoại sinh, được phả lên bằng tâm hồn của người thợ gốm, ánh xạ của một mảnh tâm hồn Chăm. Để rồi, giữa những biến động quá dữ dằn, giữa những cuồng lưu của đời sống ở một vùng đất đã kinh qua không ít biến động lịch sử, gốm tồn tại như những giấc mơ dịu dàng và đượm buồn, nâng đỡ con người.
* Đỉnh cao gốm Gò Sành: Tượng gốm
Không đơn thuần là sự thăng hoa về kỹ thuật, nghệ thuật gốm mà chất liệu mới, trên cơ sở kế thừa phong cách tháp Mẫm trong điêu khắc, tượng gốm Gò Sành đã tạo nên bước chuyển mới cho nghệ thuật tạo tượng Champa.
Thăng hoa về kỹ thuật, bởi những tác phẩm này, không chỉ đòi hỏi một kỹ thuật cao trong tạo hình mà ngay từ những khâu vốn khá đơn giản trong nghề gốm như làm đất, nung cũng đòi hỏi một sự chuẩn xác cao. Về nghệ thuật, bởi những sản phẩm này đã vượt thoát khỏi công năng sử dụng đơn thuần để trở thành tác phẩm nghệ thuật với đúng nghĩa của từ này.
Những tác phẩm này, như những chiếc đầu sư tử, mặt nạ, tượng thần hộ pháp, tượng tu sĩ thổi sáo, những tượng thú vật như cặp hươu… vẫn mang ấn tín riêng của phong cách tháp Mẫm. Tượng thú vật, ngộ nghĩnh với cặp mắt được thể hiện tài tình, có hồn và đáng yêu; đầu sư tử trang trí cầu kỳ với những dải hình tia lửa, gay gắt, nóng bỏng; tượng hộ pháp tuy có vẻ dữ dằn nhưng đằng sau vẫn như còn phảng phất nụ cười với kẻ hành hương… Sự so sánh tượng đá tháp Mẫm với đất nung Gò Sành có thể mang đến nhiều phát hiện mới. Trong gốm, tượng đất nung là đỉnh cao của nghệ thuật gốm Champa, của gốm đất nung vốn rất đặc trưng của cả vùng Đông Nam Á.
Tượng bò thần.
Từ phong cách tháp Mẫm đến tượng đất nung Gò Sành, là sự lên ngôi của đất nung bên cạnh sự chuyển mình của điêu khắc đá. Nhìn trong tổng thể diễn trình nghệ thuật Champa, tượng đất nung khẳng định thêm một bước chuyển thẩm mỹ quan trọng: nền nghệ thuật Champa đang hướng thực. Nhưng cần lưu ý, đây là phong cách tháp Mẫm trong tượng đất nung, nghĩa là tất cả những đường nét đó đã được tinh lọc qua nét đặc thù của chất liệu vốn luôn được người nghệ sĩ Champa xem trọng. Đường nét đã bớt đi chút gân guốc, cầu kỳ; nét mộc mạc, chân thực được lộ tỏ. Những tạo phẩm mang màu của đất, tự nhiên và hồn hậu, như cái thánh thiện trong tâm hồn cần hướng tới, như muốn khơi gợi những ưu nhã riêng trong tâm hồn người thưởng ngoạn. Những tạo phẩm này đã là những tác phẩm nghệ thuật với đúng nghĩa của từ này.
Sự tổng hòa màu sắc và đường nét tượng đất nung và mỹ cảm không gian đền tháp cũng cần được nghiên cứu kỹ hơn trong những công trình khác. Nhưng điều ta có thể khẳng định: tượng đất nung hoàn toàn thể hiện cội nguồn Chăm của chúng một cách không bàn cãi. Trước hết, đây là những tượng phục vụ tôn giáo và chính vì thế, hơn trong bất cứ loại hình nào, chúng phải thể hiện được sắc thái cội nguồn của người Champa, chúng phải được người nghệ sĩ Champa đặt cược bằng tất cả tâm hồn mình trong một niềm tin dâng thần thánh.
Cần lưu ý, trước đây, tượng gốm đất nung Champa, chỉ được nhắc đến một cách khá sơ giản trong một vài công trình, được nêu ra như một dẫn chứng cho sự đa dạng trong các loại hình của nghệ thuật gốm Gò Sành. Hơn thế nữa, những tác phẩm tượng gốm được liệt kê khá ít ỏi: ngoài một số đồ gốm có tính chất trang trí cho các công trình kiến trúc (kalan) như đuôi phụng trang trí vòm cửa tháp, hay chiếc đuôi phụng khác có tráng men màu xanh lục cũng được tìm thấy khi khảo sát tại kalan hình yên ngựa thuộc cụm Bánh Ít; rồi tượng sư tử bằng đất nung trong tư thế ngồi, mặt nhìn nghiêng, đầu có bờm xuôi về phía sau, toàn thân màu đỏ nhạt. Tuy nhiên, số lượng những tạo phẩm được dẫn ra như vậy không nhiều và chưa thể nói là tiêu biểu cho đỉnh cao này của nghệ thuật gốm Gò Sành. Tất nhiên, những luận giải khả dĩ về những nét độc đáo của loại hình này, do đó, cũng chưa được xác lập một cách hữu lý và thuyết phục.
Tuy nhiên, với những tạo phẩm mới được sưu tập gần đây, bổ sung thêm những hiểu biết của chúng ta về tượng gốm Gò Sành. Trước những tác phẩm không chỉ phong phú về loại hình mà độc đáo cả về phong cách, đường nét nghệ thuật, chúng ta mới giật mình trước một sáng tạo độc đáo của tiền nhân.
* * *
Nhìn từ hành trình của gốm để thấy, trên mảnh đất Bình Định này, tự ngàn xưa, đã ủ sẳn một truyền thống của sự tiếp biến – một hội tụ tỏa sáng. Và truyền thống ấy sẽ còn như một sợi chỉ đỏ xuyên thấu qua những bước đi trong lịch sử một vùng đất, để trồi sau này, ta còn gặp lại, qua những di sản: từ võ, qua hát bội và cả bài chỏi. Nhưng đó là chuyện của bài sau.
N.V.H
Ghi chú:
(4) Dung L., Kiên N. & Quỳnh H. 2011, “Mối quan hệ Sa Huỳnh - Champa nhìn từ góc độ nghiên cứu đồ gốm”, Hội nghị Thông báo Khảo cổ học 2011, 9.2011, viewed 18.10.2014 <http://baotangnhanhoc.org/vi/bai-ng...>