Thu thuế với người bán hàng qua mạng: Nói dễ nhưng làm thì khó
Bộ Tài chính đang đề xuất về phương án tính thuế với người bán hàng trên mạng. Theo đó, một sản phẩm hàng hóa bán qua mạng có giá trị từ 1 triệu đồng/lần trở lên sẽ thu thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân theo tỉ lệ %.
Bán hàng online từ 1 triệu đồng phải nộp thuế, chuyên gia nói khó, dân buôn tìm cách né.
Khi vấn đề này đang được đề xuất về phương án thì có khá nhiều ý kiến khác nhau, trong đó có đồng thuận và phản ứng. Cũng có nhiều ý kiến cho rằng, việc thu thuế không thể dựa vào sự tự nguyện. Việc này nói thì dễ nhưng để thực hiện thì khó.
Khó triển khai, không công bằng
Hiện nay, ở Việt Nam, mô hình hình kinh doanh mua bán hàng, cung ứng dịch vụ, quảng cáo… qua mạng ngày càng phát triển. Trước sự phát triển này, Bộ Tài chính cũng đã thừa nhận, cách quản lý thuế của cơ quan thuế các cấp hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý một cách đầy đủ và chính xác đối với loại hình kinh doanh này.
Tại dự thảo tờ trình đề nghị xây dựng Luật Quản lý thuế sửa đổi vừa được Bộ Tài chính công bố lấy ý kiến, Bộ này đánh giá, thương mại điện tử đã giúp người tiêu dùng có thể ngồi tại nhà để đặt hàng, mua sắm nhiều loại hàng hóa, dịch vụ thật nhanh chóng.
Theo cơ quan quản lý, giao dịch thương mại điện tử có đặc điểm ảo, khó kiểm chứng thông tin nhận dạng, dễ dàng xóa bỏ, thay đổi nên tạo sự khó khăn trong việc nắm bắt các giao dịch. Từ đó, việc quản lý thuế hiện nay đối với loại hình kinh doanh qua mạng gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý như khó xác định chính xác người nộp thuế, doanh thu phát sinh, nắm bắt quy mô hoạt động kinh doanh, nắm bắt toàn bộ quá trình giao dịch…
Do đó, với các cá nhân bán hàng qua mạng, phía đại diện của Bộ Tài chính cho rằng, cần nghiên cứu bổ sung quy định pháp luật liên quan về chính sách thu thuế đối với hàng hóa giữa các cá nhân này. Cụ thể, cơ quan chức năng đề xuất, một sản phẩm hàng hóa có giá trị từ 1 triệu đồng/lần trở lên sẽ thu thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân theo tỷ lệ % và không thu thuế đối với một sản phẩm hàng hóa có giá trị dưới 1 triệu đồng/lần. “Trường hợp một sản phẩm hàng hóa dưới 1 triệu đồng mà tần suất giao dịch từ 2 lần/ngày thì thực hiện thu thuế giá trị gia tăng và thu nhập cá nhân theo quy định” dự thảo nêu.
Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, đây là việc nên làm để tiến tới minh bạch, công bằng trong các loại hình kinh doanh. Tuy nhiên, ở nước ta, giao dịch chủ yếu thông qua hình thức thanh toán tiền mặt nên việc xác định thuế qua hoạt động kinh doanh online là không dễ.
Ông Nguyễn Hoàng Hải - Phó Chủ tịch Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính (VAFI)- cho rằng, việc quản lý thu thuế đối với các cá nhân bán hàng qua mạng phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tế. Tuy nhiên, cái khó nằm ở việc triển khai. Theo ông Hải, Bộ Tài chính cần nghiên cứu để đưa ra chính sách rõ ràng, chặt chẽ nhưng hợp lý để tránh tạo khe hở, ngăn chặn tình trạng cán bộ thuế nhũng nhiễu cũng như tạo môi trường kinh doanh bình đẳng. “Chính sách không rõ ràng sẽ tạo ra môi trường kinh doanh bất bình đẳng và người làm ăn đàng hoàng thì thua thiệt”, ông Hải nhận định.
“Chúng tôi sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhưng làm sao cho công bằng là một chuyện không hề đơn giản. Tôi có thể khai doanh thu của tôi nhưng lỡ như những tài khoản khác khai không thật thì có cách nào biết được không? Khi đó, đối thủ của tôi lại chịu thuế ít, trong khi tôi thành thật khai báo lại bị thuế nhiều. Ai đem lại công bằng này?”- Chị Bùi Thị Lan (Cầu Giấy), chủ một cửa hàng trên mạng nói.
Tìm cách “trốn thuế”
Cơ quan thuế xác định được các giao dịch kinh doanh trên Facebook chủ yếu là qua các comment và inbox. Để có được thông tin này thì cơ quan thuế phải phối hợp với Sở Thông tin Truyền thông và cả Facebook. Cũng phải hết sức lưu ý với những tài khoản tuy có xác lập kinh doanh nhưng chưa chắc họ đã có giao dịch thành công để tránh thu thuế nhầm.
Trao đổi với Lao Động, luật sư Bùi Đình Ứng (Đoàn luật sư Hà Nội) cho rằng, kinh doanh phải đóng thuế là rất đúng. Tuy nhiên, truy tìm người bán hàng qua mạng không dễ “soát” hết trong một sớm, một chiều. Rất khó tách bạch rạch ròi giữa doanh thu online và offline nên khó xác định đúng, đủ doanh thu để tính toán thuế.
“Chỉ có thể thu thuế khoán trên mỗi tài khoản Facebook chứ khó có thể xác định được thu nhập cụ thể. Do đó, việc đánh thuế kinh doanh online cần sự tự nguyện của chủ tài khoản. Khi nói đến sự tự nguyện thì lại rất khó. Chính vì vậy, tôi cho rằng, nói rất dễ nhưng làm thì lại rất khó.”- Luật sư Ứng nói.
Cũng theo luật sư Ứng, khi chưa “bắt” được tất cả mà đã thực hiện thu thuế thì “thiệt thòi” cho những tài khoản đã tự nguyện khai báo. Hơn nữa, khó khăn lớn nhất mà cơ quan thuế phải đối mặt đó là làm sao biết được doanh thu của những người bán hàng trên mạng.
Anh Tuấn Anh - một người chuyên cung cấp đồng hồ online - cho biết, đã được cơ quan thuế ở Hà Nội gọi điện “hỏi thăm” và cũng đã làm một số thủ tục kê khai thuế. Tuy nhiên, anh cho rằng với đề xuất trên, anh sẽ phải tính cách để “né thuế” và sẽ không thiếu cách lách để giảm doanh số tính thuế như giao dịch tiền mặt, “chuyển tiền cho người thân”…
Còn luật sư Nguyễn Quang Ngọc - thành viên Đoàn Luật sư TP.Hà Nội - cho rằng, trên cơ sở Luật thuế, mọi cá nhân tổ chức kinh doanh đều bình đẳng và phải có nghĩa vụ nộp thuế, tuy nhiên, việc thu loại thuế này có thể thực hiện được hay không còn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố như: Việc phối hợp để kiểm tra các tài khoản của các cá nhân kinh doanh trên mạng có thực thi được không? Việc rà soát này có ảnh hưởng đến các cam kết bảo mật của ngân hàng đối với thông tin cá nhân của chủ tài khoản?
Hai là công tác kiểm tra hoạt động kinh doanh của các cá nhân kinh doanh trên mạng xã hội nói chung được thực hiện như thế nào? Nếu không có sự phối hợp của các nhà cung cấp nội dung mạng thì các đơn vị quản lý thông tin Internet cũng không thể cung cấp số liệu người dùng cho cơ quan thuế và việc các nhà cung cấp nội dung số xuyên biên giới có sẵn lòng hợp tác với cơ quan thuế hay không là việc không khẳng định được.
Luật sư Ngọc cũng đặt ra việc thu, quản lý thuế là cần thiết nhưng chi phí cho việc thu phần thuế đó, cơ quan thuế đã ước chừng được hoặc đánh giá được số liệu chi phí cụ thể hay chưa? Nếu chi phí vượt quá cao thì sẽ dẫn đến việc có nhiều ý kiến cho rằng, cơ quan thuế đang né tránh các vấn đề nội tại của mình, những yếu kèm của mình trong công tác quản lý thuế và đang hướng dư luận sang vấn đề khác bên cạnh đó cũng sẽ có ý kiến cho rằng, cơ quan thuế đang nhân vụ việc này để đề xuất tăng công chức thuế.
Theo luật sư Ngọc, khi đã nói đến việc nộp thuế là vừa đề cập đến quyền và nghĩa vụ của công dân. Đối với các hành vi kinh doanh mà tạo ra thu nhập mà khoản thu nhập phải có nghĩa vụ đóng thuế thì việc cơ quan thuế đề xuất thu thuế là công bằng.
Theo CAO NGUYÊN - KHÁNH HÒA (LĐO)