Bán tiền tỉ sản phẩm nghiên cứu khoa học
3 tháng sau khi được nghiệm thu, sản phẩm nghiên cứu xây dựng phần mềm quản lý và khai thác dữ liệu chẩn đoán hình ảnh ứng dụng trong bệnh viện của nhóm nghiên cứu thuộc Trường Ðại học Quy Nhơn đã thương mại hóa thành công cho BVĐK tỉnh Phú Yên.
Tháng 9.2017, BVĐK tỉnh Phú Yên thông báo Công ty TNHH Điện tử tin học CMT (tại TP Quy Nhơn) - đại diện pháp nhân cho sản phẩm nghiên cứu nói trên - trúng thầu gói xây dựng hệ thống lưu trữ và giao tiếp hình ảnh PASC do nhóm nghiên cứu Trường ĐH Quy Nhơn thực hiện.
Ứng dụng phần mềm của TS Lê Thị Kim Nga vào hoạt động chẩn đoán hình ảnh tại BVĐK tỉnh. Ảnh: VĂN LƯU
“Sống” được với thực tế
Hợp đồng chuyển giao, lắp đặt hệ thống phần mềm cho BVĐK tỉnh Phú Yên được thực hiện trong 55 ngày, từ đầu tháng 10. Trước đó, trong phiên đấu thầu, có 5 đơn vị chào hàng sản phẩm. Trúng thầu với 1,35 tỉ đồng, TS Lê Thị Kim Nga - chủ nhiệm đề tài nghiên cứu, cho hay: “Quan niệm sản phẩm nghiên cứu để phục vụ, nên thương mại hóa và “sống” được với thực tế đời sống là một thành công của người nghiên cứu. Và tiêu chí đặt ra là kết quả nghiên cứu phải ứng dụng được vào thực tiễn”.
Nghiên cứu phần mềm quản lý và khai thác dữ liệu chẩn đoán hình ảnh ứng dụng trong bệnh viện hướng đến vấn đề cấp bách trong ngành Y tế hiện nay là tình trạng quá tải ở các bệnh viện, đặc biệt tuyến tỉnh; nhu cầu hội chẩn, chẩn đoán từ xa, bệnh viện vệ tinh. Việc chuyển tải hình ảnh y tế đến các khoa lâm sàng góp phần hiện đại hóa công tác khám, chữa bệnh, giảm chi phí cho bệnh nhân, bổ sung những giải pháp mới trong công nghệ mạng, bảo mật và xử lý ảnh phù hợp điều kiện đặc thù trong nước, khả năng phát triển ứng dụng cao.
Lâu nay, có không ít ý kiến về việc đề tài nghiên cứu khoa học được cấp ngân sách thực hiện nhưng không “bán” được; các nghiên cứu từ trường ĐH được chuyển giao công nghệ và thương mại hóa càng ít ỏi hơn. Do đó, việc đề tài đến từ Trường ĐH Quy Nhơn được đưa vào ứng dụng trong cuộc sống, có hợp đồng, kiếm được tiền thông qua đấu thầu, cạnh tranh với các DN khác trong cả nước là chuyện không dễ dàng.
“Các tổ chức trung gian của thị trường KH&CN chưa được hình thành. Hoạt động kết nối cung cầu công nghệ chưa thường xuyên, liên tục, kết quả nghiên cứu KH&CN được thương mại hóa còn rất ít. Do đó, kết quả nghiên cứu của Trường ĐH Quy Nhơn đã trúng thầu tại BVĐK tỉnh Phú Yên là một dấu hiệu rất tốt của thị trường khoa học” - Phó Giám đốc Sở KH&CN Nguyễn Hữu Hà cho hay.
Ngoài BVĐK tỉnh Phú Yên, thông tin từ TS Lê Thị Kim Nga, đến nay đã có hai bệnh viện tuyến tỉnh khác tìm đến đặt vấn đề với nhóm nghiên cứu để thương thảo hợp đồng lắp đặt phần mềm.
Chuyển giao cho các bệnh viện trong tỉnh
Xuất phát từ gợi ý của một giáo sư giảng dạy tại Trường ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh về một hệ thống quản lý toàn bộ các dữ liệu của bệnh viện số, năm 2013, TS Nga và nhóm nghiên cứu Trường ĐH Quy Nhơn đã đăng ký đề tài khoa học xây dựng phần mềm quản lý và khai thác dữ liệu chẩn đoán hình ảnh và được BVĐK tỉnh Bình Định đặt hàng triển khai ứng dụng tại khoa Chẩn đoán hình ảnh.
Đề tài có nhiều nội dung khác nhau thể hiện sự liên kết, tích hợp các lĩnh vực khác nhau: xử lý ảnh, nhận dạng, truyền thông mạng và cơ sở dữ liệu, xây dựng được cơ sở dữ liệu thông tin bệnh nhân, thông tin hình ảnh tích hợp; xây dựng các phần mềm tích hợp thu nhận dữ liệu ảnh, hỗ trợ chẩn đoán, kết nối thông tin bệnh nhân với các phần mềm đã có của ngành Y tế, như HIS, RIS…
Đồng thời với BVĐK tỉnh, đến tháng 11 này, phần mềm cũng đã được chuyển giao vận hành tại Trung tâm Y tế TX An Nhơn. Bác sĩ Lê Thái Bình, Giám đốc Trung tâm, cho hay: “Với phần mềm, bước đầu cho thấy quản lý rất chặt hệ thống dữ liệu chẩn đoán hình ảnh và kết nối với tuyến trên về chuyên môn. Chúng tôi muốn tiếp tục “đặt hàng” nghiên cứu tiếp về quản lý kết quả xét nghiệm để cơ bản hoàn chỉnh hệ thống phục vụ công tác khám, chữa bệnh”.
TS Lê Thị Kim Nga khẳng định: “Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi sẽ tiếp tục phát triển lên theo hướng tầm soát bệnh. Khi đó, giá trị của sản phẩm sẽ cao hơn rất nhiều”.
THU HIỀN