Nhớ thời thả lờ bắt cá
* Tạp bút của Y NGUYÊN
Tôi chính gốc “dân đồng” nên ngày nhỏ rất mê theo anh đi thả lờ, giăng câu. Làng tôi đa phần đồng cạn ruộng gò, chỉ đánh lưới được khi trời lụt nước lên to. Mùa mưa rảnh việc, tiền bạc, chợ búa lại khó khăn, mẹ ủng hộ chuyện anh em tôi thi thoảng chạy thả lờ kiếm cá về ăn. Mà cũng không riêng nhà tôi, ấy là chuyện của cả xóm. Nơi chúng tôi sinh sống nằm giữa đồng, xung quanh bạt ngàn ruộng lúa, tha hồ cho dân thả lờ giăng câu vô tư “tác nghiệp”. Đầu mùa mưa, phiên chợ làng nào cũng có người quảy lờ đem bán. Những chiếc lờ hình trụ tròn, đường kính khoảng 3 tấc, đan bằng nan tre chuốt mỏng trông rất xinh. Vậy nhưng, đó lại là cái bẫy “chết người” cho lũ cá ngờ nghệch ham vui. Thường thì đầu mùa mẹ sẽ “đầu tư” cho anh em tôi chừng chục cái lờ mới. Có kỳ kèo xin thêm thì mẹ dứt khoát không cho: “Mua nhiều cho chúng mày ham, ngoi suốt ngoài đồng à ?!”. Lờ mua về được mẹ chẻ lạt buộc bửng (nắp lờ), buộc toi (miệng lờ), thui sơ qua lửa ngọn cho cháy hết lông tre, xong rồi dùng dây thừng xỏ xâu treo lên, tránh bị giẫm bẹp…
Nguồn: Dân Trí
Thả lờ bắt cá phải đợi trời có mưa, khi đó cá đồng mới theo dòng nước đi tìm chỗ đẻ. Lờ đặt các nơi trổ ruộng (lối xả nước từ ruộng ra mương hay sang ruộng khác). Lờ đặt nơi đầu trổ, tức phía ruộng có mực nước cao hơn. Nước trổ chảy càng xiết thì cơ may cá vô lờ càng nhiều. Moi đất trống để đặt cho lờ chìm, ngập nước ít nhất đến phân nửa miệng lờ. Đặt xong, bứt cỏ phủ lên mặt lờ, tạo bóng râm để “dụ” cá…Đó chính là những “bài học nghiệp vụ” vỡ lòng tôi được anh hai dạy cho!
***
Tháng Tám Âm lịch, đồng sắp vào vụ gặt. Khi những tiếng sấm đầu mùa bùng bục vỡ rền kèm vần vũ mây đen, đó cũng là lúc anh em tôi nhấp nhổm đứng ngồi trông mưa để… thả lờ. Chờ vài ba trận mưa đầu, liệu chừng nước nhẫy (lên cao) đủ mức đặt lờ là hai anh em hào hứng cùng nhau vác cuốc mang lờ chạy bay ra đồng. Ra sớm, nhanh chóng rải lờ giành các trổ ngon, chứ không thì có đứa khác xí mất! Anh hai rải lờ, phần tôi lo vét trổ, đặt lờ, tủ cỏ. “Hợp đồng tác chiến” đâu ra đó xong, hai anh em thở phào, khoái chí nhìn mấy đứa chậm chân đang mang lờ nháo nhào chạy ngược chạy xuôi vì hết trổ. Lờ đặt xong mà trời sầm sập đổ mưa là hết chỗ chê. Nhưng cũng có hôm anh em tôi bị “quê” vì giành được trổ xong, trời chỉ lắc rắc vài hột mưa lấy có hoặc…không mưa. Thể nào anh hai cũng sẽ vừa thu lờ vừa dậm cẳng dậm chân nguyền rủa ông trời chơi ác, phỉnh phờ…
Cá bắt được bằng lờ đa phần là các loại cá sống tầng nước trên như rô, sặc, tràu (cá lóc). Mê nhất là đặt lờ trúng cá tràu. Chú cá vào lờ, biết dính bẫy sẽ điên cuồng tung mạnh. Gặp cá tràu to, có khi tung bật văng cả lờ khỏi trổ. Vậy nhưng, đã vào lờ rồi thì đừng mong thoát, ngoại trừ lờ rách. Đi thăm lờ mà dòm thấy cái lờ bị bật ngửa nghiêng hoặc rung rung là bụng như mở cờ, khả năng chín phần mười tóm được cá lớn. “Điên” nhất là gặp lũ rắn (rắn nước, rắn ráo) hoặc cua đồng mò vô ăn cá. Những con rắn to tướng, bụng vàng lườm chui vô lờ ních cá no căng không thể chui ra. Người miền Trung quê tôi thường không quen ăn rắn, chỉ biết đập chết vứt đi hoặc mang về thui cho heo ăn là cùng. Trời mùa đông mưa gió phập phù, củi dự trữ không đủ nấu ăn thì có đâu mà mang thui rắn, nên cuối cùng cũng đem rắn bỏ đi. Cua đồng có khá hơn, đem về nướng, giã mắm hoặc nấu canh đu đủ cũng không tồi. Phải tội lũ cua phá quá, vào lờ loay hoay một hồi không có lối ra là trở càng… kẹp, gãy tươi hết nan lờ. Dễ hiểu vì sao chúng thường bị anh hai tôi “xử trảm” không thương tiếc.
Cá bắt về ăn không hết mẹ tôi chuẩn bị cái thùng đất to để “rộng”. Suốt mùa mưa, dù chợ búa khó khăn nhưng ít khi nào bữa cơm nhà tôi không có cá tươi. Cơm cá ngon đã đành, nhưng cái thú thả lờ ngày mưa cũng góp phần nuôi lớn anh em tôi chẳng kém gì những bữa cơm có cá tràu nấu chua, cá rô dầm mắm...
Giờ thì đã xa quê, xa hút những vui buồn một thời thơ ấu. Ngắm mưa mà hoài niệm chút - về những tháng ngày nghèo cực nhưng chan chứa yêu thương đầm ấm. Nhớ để mà nhớ ! Bởi đâu ai có thể “tắm hai lần trên một dòng sông”…
Y.N