Dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản:
Đã gần hơn với ngư dân
Sau hơn 3 năm triển khai Đề án Kiểm soát dân số các vùng biển, đảo và ven biển (gọi tắt là Đề án 52), tác động rõ nhất là dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản (SKSS) đã đến gần ngư dân hơn. Nhiều xã ven biển trong tỉnh giảm tình trạng sinh nhiều con, người dân đã quan tâm đến chất lượng dân số.
Dần ổn định quy mô dân số
Ghềnh Ráng (TP Quy Nhơn) hiện có 1.797 phụ nữ có gia đình. Từ tháng 11.2012 đến hết tháng 8.2013, toàn phường có 89 trẻ chào đời, trong đó 6 trường hợp sinh con thứ 3, giảm 50% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, khu vực 1 (Bãi Xép) cách xa trung tâm hơn 10km. Năm “rồng vàng” 2012, khu vực có 3 trường hợp sinh con thứ 3. Từ đầu năm 2013 đến nay, chưa ghi nhận trường hợp nào. Chị Lê Thị Mỹ Kiều, 33 tuổi, ở KV 1, sinh 2 con gái. Vì chồng muốn có con trai, chị “thả” thêm đứa nữa, nhưng vẫn là gái. Vợ chồng chị quyết tâm “kế hoạch”. Qua các buổi tư vấn, khám phụ khoa của phường, chị đã mạnh dạn đi khám và được tư vấn về cách chăm sóc bản thân và phòng tránh thai.
Bà Nguyễn Thị Cúc, cộng tác viên dân số khu vực 1, cho biết: “Các cặp vợ chồng trẻ hiện nay đều đã nhận thức được đông con sẽ khổ nên đều dừng ở 1- 2 con”.
Trong khi đó, tại xã Mỹ Thọ (huyện Phù Mỹ), Đề án 52 cũng được triển khai từ năm 2009. Theo chị Nguyễn Thị Bích Phượng, cán bộ chuyên trách DS-KHHGĐ của Trạm y tế xã Mỹ Thọ, trước khi có đề án, nhận thức của người dân về công tác DS-KHHGĐ rất hạn chế. Với đề án này, kinh phí dành cho công tác truyền thông được tăng cường, hoạt động tuyên truyền được tổ chức ở cấp thôn. Đặc biệt, các gói dịch vụ chăm sóc SKSS còn được “tiếp thị” đến tận tay ngư dân khi họ cập bến sau chuyến biển dài ngày.
“Khi đi thực hiện đình sản, triệt sản, người dân vùng biển còn được hỗ trợ tiền xe cộ đi lại. Số tiền không nhiều, chỉ khoảng 10.000-15.000 đồng, nhưng lại mang tính động viên cao, giúp họ thấy mình được quan tâm nhiều hơn”, chị Phượng chia sẻ.
Mỹ Thọ có trên 16.000 dân. Số trẻ sinh năm 2012 là 210, giảm 11 trẻ so với năm 2011; số trẻ là con thứ 3 trở lên là 49, giảm 4 trẻ; tỉ suất sinh là 13,81‰, giảm 0,79‰. Tuy con số giảm không lớn, nhưng đó thật sự là thành quả của nỗ lực từ các cấp chính quyền đến người dân. Chị T.T.N.L, 29 tuổi, ở xã Mỹ Thọ, cho biết: “Được các cán bộ vận động, vợ chồng tôi quyết định không sinh thêm con bằng cách sử dụng bao cao su”.
Đưa dịch vụ đến gần ngư dân
Địa bàn rộng, các khu vực dân cư nằm rải rác nên người dân phường Ghềnh Ráng gặp khó khi tiếp cận các hoạt động từ Đề án. Nắm được đặc thù ấy, cán bộ chuyên trách DS-KHHGĐ tích cực đưa nội dung tuyên truyền về cơ sở. Trong quý II năm nay, phường đã tổ chức nhiều buổi nói chuyện chuyên đề, sinh hoạt nhóm về các nội dung của Pháp lệnh Dân số, kiến thức về chăm sóc thai sản, tổ chức khám phụ khoa cho chị em tại từng khu vực. Đặc biệt, cán bộ y tế và cộng tác viên dân số tại các khu vực còn nhiệt tình đến từng hộ để tuyên truyền, tư vấn.
“Chúng tôi còn thường xuyên phối hợp với Hội LHPN phường để đưa các nội dung tuyên truyền về sức khỏe sinh sản, DS-KHHGĐ vào hoạt động của Hội các dịp 8.3, 20.10. Chị em tham gia đông, lắng nghe và mạnh dạn trao đổi tại các buổi tư vấn, tuyên truyền”, chị Cáp Thị Thu Hà, cán bộ chuyên trách dân số phường Ghềnh Ráng, cho biết.
Bà Nguyễn Thị Cúc cho biết thêm: “Trước đây, trên địa bàn có trường hợp gia đình không theo dõi người mẹ mang bầu, không can thiệp kịp thời khi xảy ra tai biến nên cả mẹ lẫn thai nhi đều bị mất. Gần đây, các bà mẹ trẻ đã chú trọng khám thai định kỳ, biết uống viên sắt để đảm bảo sức khỏe, đến bệnh viện khám trước 10 ngày vào thời điểm dự sinh…”.
Vợ chồng chị Võ Thị Thanh Lời, 29 tuổi, ở KV 1, phường Ghềnh Ráng, có 2 con trai. Chồng đi biển, cuộc sống chật vật nên vợ chồng chị có ý định dừng ở 2 con. Cách đây 2 năm, chị Lời vỡ kế hoạch. “Sau khi có 2 con, vợ chồng tôi không dùng các biện pháp tránh thai vì sợ ảnh hưởng đến sức khỏe. Đợt này, tôi chủ động tìm đến cán bộ phụ nữ, cộng tác viên dân số để tìm hiểu về các biện pháp tránh thai”, chị Lời chia sẻ.
Theo ông Nguyễn Văn Quang, Chi cục trưởng Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh, tác động lớn nhất của Đề án 52 chính là người dân vùng biển có điều kiện tiếp cận nhiều hơn với các dịch vụ chăm sóc SKSS. Mỗi năm, ngoài các hoạt động thường xuyên, các xã ven biển còn tổ chức 3-4 đợt chiến dịch chăm sóc SKSS. Qua đó, nhận thức của người dân trong nâng cao chất lượng dân số cũng từng bước được nâng lên.
Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện Đề án 52 vẫn còn không ít khó khăn. Phương tiện truyền thông chưa thật sự phong phú. Cán bộ truyền thông phải tự soạn tài liệu, phương thức truyền thông chủ yếu là truyền thông trực tiếp, thiếu các phương tiện hiện đại hỗ trợ. Bên cạnh đó là những khó khăn đặc thù của vùng biển, ngư dân bám biển dài ngày, có gia đình vợ theo chồng cả nửa năm trời mới về địa phương, ảnh hưởng ít nhiều đến thời gian tổ chức các chiến dịch tuyên truyền…
NGỌC TRÂM