Xét xử Trịnh Xuân Thanh: Đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật
Sau 2 tuần xét xử, Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội đã tuyên án đối với các bị cáo trong phiên tòa xét xử Trịnh Xuân Thanh (nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng Công ty cổ phần xây lắp dầu khí Việt Nam - PVC) và các đồng phạm. Đây là phiên tòa xét xử vụ án đặc biệt nghiêm trọng, được dư luận xã hội quan tâm.
Các bị cáo trong vụ án hầu hết là những người giữ vị trí chủ chốt trong những đơn vị kinh tế quan trọng, được Nhà nước và nhân dân tin tưởng giao quản lý vốn và thực hiện những dự án, công trình lớn của quốc gia, trong đó có Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2.
Với trách nhiệm nặng nề nhưng Hội đồng xét xử đã công tâm điều khiển phiên tòa một cách dân chủ, công khai, minh bạch, đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật. Hậu quả nghiêm trọng về kinh tế và xã hội Theo đánh giá của Hội đồng xét xử, trong vụ án này, thiệt hại và thất thoát tài sản của Nhà nước do các bị cáo gây ra rất lớn. Với chức trách được giao là những người quản lý vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp, các bị cáo ở các mức độ khác nhau đã vi phạm nghiêm trọng các quy định về quản lý kinh tế. Bên cạnh những thất thoát về đầu tư, sai phạm của các bị cáo còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng về mặt xã hội. PVC là 1 đơn vị thành viên của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN). Từ năm 2008 đến năm 2012, PVC do Trịnh Xuân Thanh là Chủ tịch Hội đồng quản trị và Vũ Đức Thuận là Tổng giám đốc. Năm 2010 do việc đầu tư dàn trải, không hiệu quả dẫn tới tình hình tài chính của PVC lâm vào tình trạng mất cân đối nghiêm trọng. Thay vì tìm các giải pháp căn cơ để tháo gỡ khó khăn cho PVC, PVN lại giao cho PVC gánh vác thêm các khoản đầu tư có nợ xấu và thua lỗ của 5 dự án tại Tổng Công ty cổ phần tài chính dầu khí Việt Nam (PVFC) với giá trị lên tới 793 tỷ đồng. Tính đến năm 2011, PVC đã đầu tư tài chính vào 43 đơn vị với tổng giá trị đầu tư 3.460 tỷ đồng/2.500 tỷ đồng vốn điều lệ, làm mất cân đối dòng tiền đầu tư gần 1.000 tỷ đồng. Mặc dù biết rõ PVC đang gặp khó khăn rất lớn về tài chính và chưa có năng lực, kinh nghiệm để thi công những Dự án nhiệt điện lớn nhưng bị cáo Đinh La Thăng với vai trò là Chủ tịch Hội đồng thành viên của PVN vẫn giao cho PVC thực hiện gói thầu EPC Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2 - một công trình trọng điểm quốc gia theo hình thức chỉ định thầu. Mặt khác, trong khi dự án đầu tư hiệu chỉnh chưa được phê duyệt; chưa có thiết kế FEED, tổng dự toán, thiết kế bản vẽ thi công, hồ sơ yêu cầu, hồ sơ dự thầu và một loạt thủ tục pháp lý khác có liên quan, bị cáo Đinh La Thăng vẫn chỉ đạo cấp dưới ký kết Hợp đồng EPC số 33 ngày 28.2.2011 và Hợp đồng chuyển đổi chủ thể số 4194 ngày 13.5.2011 với giá trị lên tới 1,2 tỷ USD. Thực chất việc ký kết các hợp đồng này chỉ nhằm mục đích lấy tiền của PVN để chuyển cho PVC đang chìm đắm trong nợ nần. Chỉ trong vòng chưa đầy 10 ngày từ 23-31.5.2011 thông qua việc xin tạm ứng, PVC đã rút của PVN 1.000 tỷ đồng trên tổng số 1.312 tỷ đồng và 6,6 triệu USD tạm ứng trái quy định. Sau đó PVC đã sử dụng không đúng mục đích số tiền lên tới 1.115 tỷ đồng gây thiệt hại cho PVN 119,8 tỷ đồng. Bên cạnh đó, để có tiền chi tiêu và chiếm hưởng cá nhân, Trịnh Xuân Thanh cùng Vũ Đức Thuận đã đề ra chủ trương và giao cho Nguyễn Anh Minh (nguyên Phó Tổng giám đốc PVC) chỉ đạo Lương Văn Hòa (nguyên Giám đốc Ban điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch) đã cùng các bị cáo dưới quyền lập khống hồ sơ thiết kế, dự toán, thi công, nghiệm thu, thanh quyết toán 4 hạng mục phụ trợ của Dự án Nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 1 và Dự án Nhà máy nhiệt điện Quảng Trạch 1, rút số tiền hơn 13 tỷ đồng từ Ban điều hành. Trong số tiền này Trịnh Xuân Thanh chiếm hưởng 4 tỷ đồng, Vũ Đức Thuận chiếm hưởng 800 triệu đồng, Nguyễn Anh Minh chiếm hưởng hơn 3,6 tỷ đồng, Bùi Mạnh Hiển chiếm hưởng 400 triệu đồng, Lương Văn Hòa chiếm hưởng hơn 757 triệu đồng, Lê Thị Anh Hoa và Nguyễn Thành Quỳnh chiếm hưởng hơn 1,9 tỷ đồng. Số tiền 1,5 tỷ đồng còn lại Trịnh Xuân Thanh, Vũ Đức Thuận, Nguyễn Anh Minh và Bùi Mạnh Hiển chiếm hưởng sử dụng chung. Theo Hội đồng xét xử, việc chỉ định nhà thầu thiếu năng lực về kinh nghiệm cũng như tài chính là PVC thực hiện dự án đã để lại hệ lụy rất lớn khác. Hàng loạt cán bộ, chuyên gia trên các lĩnh vực dầu khí, xây dựng, tài chính của PVN được đào tạo bài bản, có quá trình cống hiến, đã vi phạm pháp luật, lâm vào vòng lao lý. Mặt khác, do không có năng lực thi công nên Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2 đã chậm 18 tháng so với tiến độ Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 428/QĐ-TTg, làm đội vốn công trình, lãi phát sinh đối với các khoản vay trong và ngoài nước, đó là chưa kể tới việc nhiều máy móc, thiết bị đắp chiếu đã hết thời hạn bảo hành khi nhà máy chưa vận hành. Không chỉ vậy, hệ lụy của vụ án tác động rất lớn đối với xã hội. Nếu tất cả các bộ, ngành đều tùy tiện sử dụng tiền và tạm ứng tiền trái quy định, sẽ gây hỗn loạn cho nền kinh tế. Do vậy, cần thiết phải có mức án tương xứng đối với mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo mới có tác dụng cảnh cáo, răn đe và phòng ngừa chung. Xem xét khách quan, toàn diện “công” và “tội” của từng bị cáo Tại phiên tòa, về cơ bản các bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, xong vẫn có một số bị cáo không thừa nhận tội danh như Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao truy tố. Tuy nhiên, căn cứ lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, lời khai của nguyên đơn dân sự, lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, kết luận giám định tư pháp, vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án, đặc biệt là quá trình tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xác định có đủ cơ sở kết luận các bị cáo đã phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” (Điều 165, Bộ luật Hình sự 1999) và tội “Tham ô tài sản” (Điều 278, Bộ luật Hình sự năm 1999).
Theo KIM ANH-NGUYỄN CÚC (TTXVN/VIETNAM+)