KỶ NIỆM 46 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30.4.1975 - 30.4.2021)
Dấu ấn đường lối, chiến lược từ đại thắng mùa Xuân năm 1975
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan khác nhau. Trong những nhân tố đó, đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng - cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng XHCN ở miền Bắc - là nhân tố quyết định.
Đại hội IV (năm 1976) của Đảng đã khẳng định: “Nhân tố quyết định thắng lợi quan trọng nhất là sự lãnh đạo của Đảng ta với đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo. Đó là đường lối giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ cách mạng quan hệ chặt chẽ với nhau: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng XHCN ở miền Bắc, nhằm mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, hoàn thành thống nhất nước nhà, tạo điều kiện để đưa cả nước tiến lên CNXH. Với đường lối ấy, Đảng ta đã động viên được đến mức cao nhất lực lượng nhân dân hùng hậu cả nước, kết hợp tiền tuyến lớn với hậu phương lớn, kết hợp sức mạnh nhân dân ta với sức mạnh ba dòng thác cách mạng của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ”.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các lãnh đạo Quân ủy Trung ương theo dõi diễn biến Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Ảnh tư liệu
1.
Đường lối của Đảng được xác định rõ từ Đại hội III (9.1960): “Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược: Một là, tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau”.
Đảng ta cũng chỉ rõ vai trò của từng chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; cách mạng XHCN ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất với toàn bộ sự nghiệp cách mạng cả nước.
2.
Đường lối đó được Đảng ta lãnh đạo, chỉ đạo và đem lại kết quả trong thực tiễn. Quá trình đó diễn ra trong nhiều giai đoạn kế tiếp nhau.
* Giai đoạn 1954 - 1960:
Miền Nam đấu tranh chống chế độ Mỹ - Diệm, củng cố hòa bình, tiến tới cuộc “Đồng khởi”. “Đồng khởi” thắng lợi đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền Nam, từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công.
Miền Bắc tiến hành khôi phục kinh tế, hoàn thành những nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Bắc (đặc biệt là “Cải cách ruộng đất”); cải tạo XHCN đối với các thành phần kinh tế; phát triển KT-XH.
Những thắng lợi của cách mạng hai miền đã tác động, hỗ trợ lẫn nhau trong hoàn thành nhiệm vụ chung của cách mạng cả nước. Miền Bắc đã bước đầu mở đường, chuẩn bị chi viện cho tiền tuyến miền Nam đánh Mỹ. Mặt khác, với những thành tích đã đạt được, miền Bắc cổ vũ mạnh mẽ về mặt tinh thần cho cuộc đấu tranh của đồng bào ta ở miền Nam. Miền Nam trực tiếp đấu tranh chống Mỹ - Diệm cũng góp phần quan trọng ngăn chặn âm mưu mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai ở Việt Nam và Đông Dương.
* Giai đoạn 1961 - 1965:
Đảng lãnh đạo đánh thắng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở Miền Nam. Với thắng lợi này, ta vừa giữ được quyền chủ động, vừa tạo ra thế trận mới cho cách mạng miền Nam; vừa làm phá sản một hình thức chiến tranh; đẩy Mỹ và chính quyền ngụy vào thế bị động chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.
Cũng giai đoạn này, Đảng lãnh đạo tiến hành thắng lợi Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền Bắc (1961 - 1965). Với thắng lợi này, cùng với kết quả xây dựng CNXH ở miền Bắc giai đoạn 1954 - 1960, đã “đưa miền Bắc tiến những bước dài chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới”.
Với thắng lợi của cách mạng miền Nam tiếp tục góp phần quan trọng bảo vệ vững chắc miền Bắc xây dựng CNXH. Còn với thắng lợi của cách mạng miền Bắc, tiếp tục cổ vũ tinh thần cho quân và dân ta ở miền Nam đánh Mỹ. Mặt khác, những thành tích đã đạt được ở miền Bắc còn góp phần quan trọng tạo ra điều kiện vật chất chi viện cho chiến trường miền Nam.
* Giai đoạn 1965 - 1968:
Đảng lãnh đạo đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ ở miền Nam. Thắng lợi của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn 1965 - 1968, đỉnh cao là chiến dịch Mậu Thân 1968, đã làm đảo lộn thế chiến lược của địch trên chiến trường, làm choáng váng cả nước Mỹ, chấn động dư luận thế giới, tạo ra bước ngoặt quan trọng của cuộc chiến tranh, đánh dấu sự phá sản của chiến lược “chiến tranh cục bộ”, làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược và buộc đế quốc Mỹ chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc không điều kiện, chấp nhận đàm phán trực tiếp với ta tại Hội nghị Paris.
Cũng giai đoạn này, ở miền Bắc, Đảng lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân ta, tiến hành chuyển hướng xây dựng kinh tế, tiếp tục xây dựng CNXH trong điều kiện cả nước có chiến tranh; đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ.
Với những thắng lợi ở miền Bắc đã góp phần quan trọng bảo vệ miền Bắc, tiếp tục xây dựng CNXH. Đồng thời, giai đoạn này, miền Bắc còn tăng cường chi viện cho miền Nam làm tròn vai trò to lớn của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Trong khi đó, những thắng lợi to lớn trên chiến trường miền Nam không những trực tiếp làm phá sản một hình thức chiến tranh điển hình của đế quốc Mỹ, mà còn góp phần quan trọng cùng miền Bắc đánh bại âm mưu mở rộng chiến tranh ra cả nước của đế quốc Mỹ.
* Giai đoạn 1969 - 1973:
Đảng lãnh đạo đánh thắng chiến lược “Việt Nam hóa” và “Đông Dương hóa” chiến tranh của đế quốc Mỹ ở miền Nam. Trong hai năm 1970 - 1971, quân dân ta ở miền Nam cùng với quân dân hai nước Lào và Campuchia đã giành những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trên mặt trận quân sự, chính trị và cuộc tiến công chiến lược 1972 đã mở ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giáng đòn mạnh mẽ vào Ngụy quân (công cụ chủ yếu) và quốc sách “bình định” (xương sống) của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, buộc Mỹ phải tuyên bố “Mỹ hóa” trở lại chiến tranh xâm lược.
Ở miền Bắc, Đảng lãnh đạo quân và dân ta thực hiện những nhiệm vụ chính trị quan trọng: Khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, tiếp tục xây dựng CNXH; đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ, đặc biệt là đánh bại cuộc tập kích bằng đường không 12 ngày đêm (18 - 29.12.1972) của đế quốc Mỹ.
Có thể thấy, thắng lợi của chúng ta trên chiến trường miền Nam và Đông Dương đã “chia lửa” với đồng bào miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Còn thắng lợi của cách mạng miền Bắc đã góp phần quan trọng cùng với đồng bào ta ở miền Nam đánh thắng chiến lược “Việt Nam hóa” và “Đông Dương hóa” của đế quốc Mỹ. Mặt khác, với thắng lợi của cách mạng hai miền tạo ra thế trận có lợi cho chúng ta trên bàn ngoại giao, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán, kí kết Hiệp định Paris về “Chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam”. Đây là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của quân dân ta trên cả hai miền đất nước, mở ra bước ngoặt mới cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc. Hiệp định Paris đã buộc được “Mỹ cút”, là một thắng lợi lịch sử quan trọng, tạo thời cơ thuận lợi để nhân dân ta tiến lên “đánh cho Ngụy nhào”.
* Giai đoạn 1973 - 30.4.1975:
Ở giai đoạn này, dưới sự chỉ đạo của Đảng, cách mạng hai miền tập trung thực hiện nhiệm vụ chiến lược: Tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ và tổng tiến công nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Để làm được điều đó, quân và dân ta ở miền Nam tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh chính trị đòi quân địch thi hành hiệp định Paris, tổ chức xây dựng lực lượng, phản công chống lại những cuộc hành quân tràn ngập lãnh thổ của kẻ địch; sau đó, đánh một số trận có tính chất thăm dò và hoàn thành thế trận cho trận đánh cuối cùng của ta.
Giai đoạn này, quân và dân ta ở miền Bắc tiếp tục hăng hái thi đua sản xuất, tăng cường chi viện sức người, sức của cho miền Nam.
Sau quá trình chuẩn bị của cả hai miền, cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 đã diễn ra qua ba chiến dịch lớn: Chiến dịch Tây Nguyên (4 - 24.3); Chiến dịch Huế - Đà Nẵng (21 - 29.3) và giành thắng lợi quyết định trong Chiến dịch Hồ Chí Minh (26 - 30.4).
Đội hình hành quân của Trung đoàn 280 tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975. Ảnh tư liệu
Như vậy, qua phân tích ở trên cho chúng ta thấy mối quan hệ gắn bó, chặt chẽ và tác động qua lại của hai chiến lược cách mạng ở hai miền đất nước trong giai đoạn 1954 - 1975. Cách mạng miền Nam là tiền tuyến lớn trực tiếp đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, đồng thời, góp phần quan trọng bảo vệ sự nghiệp xây dựng CNXH ở hậu phương lớn miền Bắc.
Cách mạng miền Bắc không những thu được những thành tựu hết sức quan trọng từ công cuộc xây dựng CNXH, tạo ra một bộ mặt mới, với những bước tiến chưa từng có trong lịch sử dân tộc; mà quan trọng hơn, miền Bắc còn tiếp nhận những chuyến hàng viện trợ nghĩa tình của các nước XHCN anh em và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Từ đó, thông qua con đường vận tải trên biển và trên bộ đã chi viện cho chiến trường miền Nam ngày một nhiều, cả về sức người và sức của. Sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc còn tạo ra một hình ảnh vô cùng đẹp đẽ, có sức cổ vũ lớn lao cho đồng bào ta ở miền Nam đánh Mỹ và thắng Mỹ.
3.
Nhân tố quyết định thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng - cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng XHCN ở miền Bắc - hay đường lối: “Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH” của Đảng.
Thắng lợi nêu trên là một bằng chứng sinh động minh chứng cho luận điểm: “Sự lãnh của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”, mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định.
Đường lối nêu trên của Đảng ta là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta. Từ đó, soi vào thực tiễn hiện nay cho chúng ta hai bài học vô cùng quý giá:
Thứ nhất: Cần vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn. Đặc biệt, hết sức chú ý đến thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Thứ hai: Hoạch định chiến lược cách mạng chung cho cả nước phải hết sức chú ý đến đặc điểm cụ thể của từng vùng, miền, địa phương… cho phù hợp. Từ đó, xác định rõ mục đích chung của toàn bộ chiến lược, đồng thời, hết sức chú ý nhiệm vụ cụ thể của từng vùng, miền, địa phương.
Hai bài học này ngày nay vẫn còn nguyên giá trị và nóng hổi tính thời sự. Tiếp tục vận dụng bài học này, cần thực hiện tốt việc vận dụng sáng tạo lý luận nói chung, quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết đại hội Đảng các cấp nói riêng phù hợp với thực tiễn đất nước và từng địa phương, cơ quan, đơn vị.
* * *
Chúng ta có quyền tin tưởng và hy vọng rằng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sức mạnh đoàn kết và truyền thống từ những chiến thắng hào hùng của dân tộc nói chung, Đại thắng mùa Xuân năm 1975 nói riêng sẽ tiếp tục được phát huy cao độ trong thời đại mới. Từ đó, dân tộc Việt Nam chắc chắn sẽ tiếp tục làm nên những mùa Xuân đại thắng trong thời đại mới.
ThS LÊ VĂN MINH
(Trường Chính trị tỉnh)