HOÀI NAM
A
An Khê
An Khê vốn là Tây Sơn Thượng đạo, căn cứ của nghĩa quân Tây Sơn, xưa kia thuộc tỉnh Bình Định. Vì run sợ và căm ghét phong trào Tây Sơn, sau khi lên ngôi vua, năm 1819, Gia Long cho đổi ấp Tây Sơn thành ấp An Tây sau đổi là An Sơn; nghiêm cấm người Kinh không được đến đây định cư, người Thượng không được cư trú vượt quá dưới An Sơn. Đến năm 1826 thì An Sơn được gọi là An Khê. Tại đây, vua Minh Mạng cho lập 7 đồn, và có trường giao dịch gọi là nguồn Phương Kiệu. Năm 1870, vua Tự Đức cho lập Nha Doanh điền ở An Khê, mộ dân lập 5 ấp, đặt chức An Khê Doanh điền sự vụ. Nay An Khê là thị xã của tỉnh Gia Lai.
An Lão
An Lão, vùng đất xưa kia nằm phía tây huyện Bồng Sơn, phủ Hoài Nhơn lập năm 1471 (năm 1602 đổi thành phủ Quy Nhơn), là địa bàn cư trú và sinh sống của người Ba Na và H’Rê. Năm 1899, lập huyện Hoài Ân, vùng đất An Lão nằm phía tây huyện này.
Cách mạng tháng 8.1945 thành công, hệ thống bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân từ tỉnh đến huyện, xã được thiết lập trên phạm vi toàn tỉnh Bình Định. Đầu năm 1948, tỉnh thành lập ba huyện miền núi là An Lão, Vĩnh Thạnh và Vân Canh. Lúc mới thành lập, huyện An Lão có 11 xã với trên 4.000 dân. Địa danh huyện An Lão tồn tại cho đến khi nhân dân ta kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp.
Dưới chế độ Mỹ-nguỵ, địa danh và địa giới huyện An Lão bị thay đổi nhiều lần. Năm 1955, nguỵ quyền Bình Định đổi huyện thành nha, đến năm 1958 lại đổi thành quận An Lão. Để đối phó với phong trào đồng khởi của nhân dân Miền Nam và tỉnh Bình Định đang dâng cao, năm 1961, nguỵ quyền tỉnh giải tán ba huyện miền núi, sát nhập quận An Lão vào quận Hoài Nhơn gồm 32 xã (năm 1970 còn 26 xã)
Sau ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất nước nhà, huyện An Lão được tái lập đến năm 1976 thì sát nhập vào huyện Hoài Ân; cuối năm 1980 thì chia huyện Hoài Ân thành hai huyện lấy tên cũ là Hoài Ân và An Lão. Huyện An Lão có 7 xã: An Quang, An Trung, An Hưng, An Dũng, An Vinh, An Toàn và An Hoà. Đầu năm 1986, chia xã An Hoà thành hai xã An Hoà và An Tân; chia xã An Quang thành hai xã An Quang và An Nghĩa. Đến thời điểm này, huyện An Lão gồm 9 xã (thêm hai xã mới lập là An Tân và An Nghĩa).
Từ khi tỉnh Bình Định được tái lập vào năm 1989, đến cuối năm 2000, huyện An Lão vẫn gồm 9 xã là An Hưng, An Trung, An Dũng, An Vinh, An Toàn, An Tân, An Hoà, An Quang và An Nghĩa. Huyện có địa giới phía bắc giáp huyện Ba Tơ (tỉnh Quảng Ngãi), phía nam giáp huyện Hoài Ân, phía đông giáp huyện Hoài Nhơn, phía tây giáp huyện An Khê (tỉnh Gia Lai). An Lão có diện tích tự nhiên: 690,35 km2; dân số 242.000 người, trong đó người Kinh chiếm 67%, người Ba Na và H’Ré ‘RéH’HHchiếm 23%. Trong số 9 xã, 54 thôn của toàn huyện, có 8 xã, 39 thôn với trên 7.000 đồng bào H’ Rê và khoảng 700 đồng bào Ba Na sinh sống.
An Nhơn
An Nhơn là một thị xã nằm phía nam tỉnh Bình Định, bắc giáp huyện Phù Cát, đông giáp huyện Tuy Phước, tây giáp huyện Tây Sơn (Bình Khê cũ), tây nam giáp huyện Vân Canh. An Nhơn có diện tích trên trên 24.000ha; dân số 178.000 người.
Từ đầu thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XV, vùng đất An Nhơn là trung tâm của vương quốc Chămpa với kinh đô là thành Đồ Bàn. Khi phủ Hoài Nhơn được thành lập, sau đổi thành phủ Quy Nhơn (1471-1602) gồm ba huyện Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn, vùng đất An Nhơn nằm trong huyện Tuy Viễn. Năm 1778, sau khi giải phóng các vùng từ Quảng Nam vào đến Bình Thuận, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế, định đô tại An Nhơn; cải tạo, nâng cấp thành Đồ Bàn đổi tên là thành Hoàng Đế. Năm 1808, Gia Long đổi dinh thành trấn Bình Định, địa danh huyện An Nhơn vẫn chưa có trên bản đồ hành chính trấn Bình Định. Năm 1832, Minh Mạng đổi trấn thành tỉnh Bình Định; lập phủ An Nhơn gồm hai huyện Tuy Phước, Tuy Viễn, phủ lỵ đặt tại làng Hoà Cư (xã Nhơn Hưng), đến năm Nhâm Tý (1852) dời về Mỹ Thạnh (Nhơn Phúc) và đến năm 1939, dưới thời Pháp thuộc, thì dời về thị trấn Bình Định ngày nay.
Về địa lý hành chánh, 1865-1885, phủ An Nhơn gồm 2 huyện Tuy Phước (3 tổng: Văn Dương, Tuy Hà, Thời Tú với 147 thôn) và Tuy Viễn ( 2 tổng: Thời Đôn, Thời Hoà với 109 thôn). Năm 1888, Đồng Khánh cho lập huyện Bình Khê gồm 4 tổng, 46 thôn, trang, do phủ An Nhơn thống hạt. Năm 1906, triều đình Huế đổi huyện Tuy Viễn thành phủ An Nhơn. Đến năm 1920, phủ An Nhơn gồm 4 tổng, 108 làng. Bốn tổng đó là: Mỹ Đức có 19 làng, An Ngãi có 26 làng, Háo Đức có 35 làng, Nhơn Nghĩa có 28 làng. Năm 1939, nhà cầm quyền Pháp và tay sai chia tổng Háo Đức thành Háo Đức Thượng, Háo Đức Hạ và chia tổng Nhơn Nghĩa thành Nhơn Nghĩa Thượng, Nhơn Nghĩa Hạ nên phủ An Nhơn gồm 6 tổng, 108 làng.
Dưới chính quyền cách mạng, thời kháng chiến chống Pháp (1945-1954), thực hiện chủ trương bỏ cấp tổng, nhập nhiều làng thành xã, huyện An Nhơn có 31 xã; đầu năm 1948, nhập xã lần thứ hai, từ 31 xã rút xuống còn 12 xã tồn tại cho đến khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết.
Dưới chế độ Mỹ-nguỵ, An Nhơn đổi thành quận, gồm 14 xã, 100 ấp (thời kháng chiến gọi là thôn). Sau ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất nước nhà, huyện An Nhơn gồm 13 xã, 93 thôn. Năm 1979, thành lập thị trấn Bình Định là huyện lỵ An Nhơn. Năm 1985, thành lập xã Nhơn Tân trên cơ sở sát nhập một phần đất của xã Nhơn Thọ và một phần đất của xã Nhơn Lộc; huyện An Nhơn gồm 1 thị trấn và 14 xã. Tháng 12 năm 1997, thành lập thị trấn Đập Đá. Đến năm 2000, huyện An Nhơn có 2 thị trấn và 13 xã, 108 thôn. Trong đó, 8 xã Nhơn Phúc, Nhơn Mỹ, Nhơn Khánh, Nhơn Hậu, Nhơn Lộc, Nhơn Hoà, Nhơn Thọ và Nhơn Tân nằm phía tây quốc lộ IA; 4 xã Nhơn Thành, Nhơn An, Nhơn Phong, Nhơn Hạnh nằm phía đông quốc lộ IA; thị trấn Bình Định, thị trấn Đập Đá và xã Nhơn Hưng nằm trên quốc lộ IA.
Ngày 28.11.2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 101 về việc thành lập thị xã An Nhơn, trực thuộc tỉnh Bình Định. Theo đó, thị xã An Nhơn có tổng diện tích trên 24.000ha, dân số 178.000 người. Thị xã An Nhơn sẽ có 15 đơn vị hành chính trực thuộc với 10 xã: Nhơn An, Nhơn Phong, Nhơn Hạnh, Nhơn Hậu, Nhơn Mỹ, Nhơn Khánh, Nhơn Phú, Nhơn Lộc, Nhơn Tân và Nhơn Thọ và 5 phường: Bình Định, Nhơn Hoà, Nhơn Hưng, Đập Đá và Nhơn Thành.
An Nhơn có địa hình khá đa dạng gồm các vùng đồi núi, gò trảng và đồng bằng. Dãy núi An Tượng (Nhơn Lộc, Nhơn Thọ, Nhơn Tân) cao nhất vùng, ngày xưa có nguồn An Tượng là nơi trao đổi hàng hoá giữa đồng bào Kinh và đồng bào Thượng, cũng là nơi còn in dấu tích chiến công oanh liệt của Trần Quang Diệu, tướng Tây Sơn đánh bại quân Nguyễn Ánh năm 1799. An Tượng cũng là căn cứ địa của nhân dân An Nhơn trong kháng chiến chống Mỹ. Hòn Đại An (Nhơn Mỹ), dưới chân có Bàu Sấu là di tích trận quyết chiến của nghĩa quân Cần Vương do Mai Xuân Thưởng đứng đầu chống lại quân Pháp và tay sai (năm 1887). Dưới chân núi này, cuối tháng 10.1936 đã diễn ra một sự kiện lịch sử quan trọng: Chi bộ Cộng sản Hồng Lĩnh, tổ chức cơ sở Đảng đầu tiên của hai huyện An Nhơn và Bình Khê (Tây Sơn) ra đời.
An Nhơn có gò Vân Sơn, một địa danh nổi tiếng về nghề gốm, hòn Long Cốt (Nhơn Hậu) từng chứng kiến những bước thăng trầm của thành Đồ Bàn, cũng như những năm tháng vàng son của thành Hoàng Đế. Cạnh đó là tháp Cánh Tiên, chùa Nhạn Sơn đậm đà văn hoá Chămpa và Thập Tháp Di Đà tự là ngôi chùa cổ nổi tiếng nhất Bình Định. Núi Mò O (Nhơn Thành), trên đỉnh còn dấu vết đồn tiền tiêu của nghĩa quân Tây Sơn. Gần đó, làng Châu Thành từng là lỵ sở của phủ Quy Nhơn. Dân gian có câu: “An Nhơn có núi Mò O, có chùa Thập Tháp, có đò Trường Thi”.
Sông Côn từ Tây Sơn chảy xuống An Thái (Nhơn Phúc) chia thành nam phái và bắc phái, tiếp nước sông An Tượng rồi lại phân dòng như 5 dải lụa biếc khi thẳng băng, lúc uốn lượn ôm lấy cánh đồng màu mỡ lúa ngô và các xóm làng trù phú. Nam phái chảy xuống đến Phụng Ngọc (Nhơn Phúc) lại rẽ đôi: một dòng chảy vào Phụng Ngọc ra đến cửa Tiền thành Bình Định, rồi chảy về đông, thường gọi là sông Cửa Tiền; một dòng chảy thẳng xuống Tân An, qua hết An Nhơn đến Tuy Phước, rồi đổ ra đầm Thị Nại, thường gọi là Trung phái. Bắc phái chảy đến bến Thị Lựu thì phân hai: một nhánh là sông Thạch Yển chạy vào đông nam rồi ra đông bắc, uốn lượn vòng qua núi Mò O; một nhánh là sông La Vỹ chảy về phía Gò Găng và hợp với dòng Thạch Yển tại Lý Nhơn. Từ hợp lưu này, hai sông lại chia đôi rồi lại hợp nhau ở cửa vào đầm Thị Nại. Tương truyền, sông La Vỹ, còn có tên là sông Quai Vạc là do Nguyễn Nhạc cho đào từ phía tây thành Đồ Bàn làm thế phòng thủ, đồng thời lấy đất tôn cao nền thành.
Đường sắt xuyên Việt và quốc lộ IA từ Bắc vào Phù Cát, qua các phường Nhơn Thành, Đập Đá, Nhơn Hưng, Bình Định, Nhơn Hoà rồi vào Nam, chia An Nhơn thành 2 khu vực đông và tây đường. Quốc lộ 19 từ Quy Nhơn chạy lên tới cầu Bà Gi, men theo chân núi Phước An, qua Nhơn Hoà, Nhơn Thọ, Nhơn Lộc, đến Phú Phong (Tây Sơn) rồi lên Tây Nguyên, nối liền đông bắc Campuchia và Hạ Lào. Trong thị xã còn có các tuyến đường liên huyện, liên xã nối liền các địa phương. Sông Côn cũng là tuyến đường thuỷ quan trọng đối với An Nhơn từ xưa đến nay. Mạng lưới giao thông thuỷ bộ thuận lợi đã tạo điều kiện để nhân dân An Nhơn mở rộng giao lưu văn hoá, kinh tế với các địa phương trong tỉnh, trong khu vực.
An Nhơn cũng như Tây Sơn, Tuy Phước xưa kia thuộc huyện Tuy Viễn nổi tiếng là “tiểu nông nại” của phủ Hoài Nhơn (sau đổi thành Quy Nhơn). Đặc biệt, vùng đất An Nhơn xưa kia từng là kinh đô của vương quốc Chămpa, kinh thành của nhà Tây Sơn và từng có một thời là lỵ sở của tỉnh Bình Định, nên các ngành nghề tiểu thủ công truyền thống và việc kinh doanh buôn bán ở đây rất phồn thịnh. An Nhơn có làng rèn Tây Phương Danh, làng đúc đồng Bàng Châu, làng dệt An Ngãi (Nhơn Hưng), An Thái (Nhơn Phúc), làng trống Nhơn Khánh, làng chiêng An Thái, làng tiện gỗ Nhạn Tháp, làng gốm Vân Sơn, làng nón Gò Găng, làng bún Song Thằn An Thái v.v. Phường Đập Đá hiện là nơi tập trung nhiều làng nghề nhất ở An Nhơn. Thời Pháp thuộc, tại An Nhơn đã có một số cơ sở sản xuất công nghiệp quy mô nhỏ như hãng dệt Flachet Lê Phát An ở Tân An (Nhơn An), hãng SITA tại An Ngãi (Nhơn Hưng) và 5 xưởng dệt của người Hoa tại An Thái (Nhơn Phúc) thu nhận trên 1.400 công nhân vào làm việc.
Đầu thế kỷ XX, An Nhơn có 6/11 chợ lớn nhất tỉnh Bình Định. Đó là các chợ: Gò Chàm (nay là chợ Bình Định), An Thái (Nhơn Phúc), Gò Găng (Nhơn Thành), Thạch Yển (nay là chợ Đập Đá), Cảnh Hàng (Nhơn Phong), Phú Đa (Nhơn An). Thời chúa Nguyễn, chợ Thạch Yển với cảnh trên bến dưới thuyền tấp nập, sầm uất, là chợ lớn nhất huyện Tuy Viễn, lớn hơn chợ Gò Chàm
Thời phong kiến, An Nhơn nổi tiếng là đất hiếu học với nhiều nhà khoa bảng tên tuổi như Nguyễn Đôn Phục, Hồ Sĩ Tạo; với nhiều thi nhân danh tiếng như cụ Tú Nhơn Ân Nguyễn Diêu, cụ Tú Vân Sơn Nguyễn Khuê, Cử nhân Nguyễn Trọng Trì, cuồng sĩ Nguyễn Bá Huân... Cũng như huyện Tây Sơn, An Nhơn là cái nôi của dòng võ Bình Định, võ Tây Sơn với những võ sư nổi tiếng như Đinh Văn Nhưng, còn gọi là “Ông Chảng ngang thiên”, quê Bàng Châu, Đập Đá, là thầy dạy võ anh em nhà Tây Sơn; Đặng Văn Long, quê Đại An, Nhơn Mỹ, được mệnh danh là “Thiết lý Đặng” (họ Đặng có cánh tay sắt), là vị đô đốc tài ba của nghĩa quân Tây Sơn; Võ Duy Dương, quê Cù Lâm, Nhơn Lộc, được suy tôn là “Ngũ linh Dương”(Ông Dương một lúc xách 5 quả linh bằng gang) đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của nhân dân Đồng Tháp Mười vùng lên chống Pháp xâm lược. Làng võ An Thái (Nhơn Phúc), xưa nay nổi tiếng “quyền An Thái”, với nhiều võ sư, võ sĩ danh tiếng. An Nhơn còn nổi tiếng về lễ hội “Xô cỗ-Đổ giàn”, nơi tranh tài cao thấp của các lò võ trong tỉnh, trong vùng, là một lễ hội văn hoá - thể thao độc đáo. An Nhơn cũng nổi tiếng về hát bội với làng tuồng Nhơn Hoà có nhà thờ Tổ hát Bội, với các gánh hát nổi tiếng như gánh Chánh ca May, gánh Hoà Nghi.
Vốn là đất kinh xưa (thời vương quốc Champa và thời Tây Sơn) nên trên địa bàn An Nhơn có nhiều di tích văn hoá - lịch sử nổi tiếng. Đó là các thành cổ: Thành Cha (còn gọi là An Thành ở Nhơn Lộc), thành Đồ Bàn (Nhơn Hậu), thành Hoàng Đế (nhà Tây Sơn), thành Bình Định (triều Nguyễn). Đó là các tháp Chămpa cổ: tháp Phú Lốc (Nhơn Thành), tháp Cánh Tiên và hàng chục phế tích tháp như cụm tháp Chà Rầy (Nhơn Lộc), tháp Tân Kiều (Nhơn Mỹ), cụm tháp Khánh Lễ, An Hoà, Thông Hoà (Nhơn Khánh), tháp Châu Thành (Nhơn Thành), cụm tháp Mẫm (Nhơn Hậu). Di tích phong trào khởi nghĩa Tây Sơn có hòn Long Cốt, sông La Vỹ, lầu Bát Giác. Di tích phong trào Cần Vương có Cẩm Văn, cầu Chàm, Bàu Sấu - Kỳ Đồng... Di tích Triều Nguyễn có Trường Thi, Văn Miếu. Di tích tôn giáo có chùa Thập Tháp. Ngoài ra, còn có nhiều di tích cách mạng và kháng chiến như hòn Đại An, nơi ra đời Chi bộ Hồng Lĩnh (Nhơn Mỹ); Gò Mả Tổ (Phương Danh, Đập Đá), nơi yên nghỉ của 153 liệt sĩ Sư đoàn 3 quân Giải phóng anh hùng (Sư đoàn Sao Vàng).
An Sơn
An Sơn là một làng của xã Hoài Sơn, huyện Hoài Nhơn, năm 1945 là căn cứ cách mạng của Uỷ ban Vận động Cứu quốc tỉnh Bình Định. Tại nơi đây, ngày 18.8.1945, Uỷ ban Vận động Cứu quốc tỉnh đã họp thành lập Uỷ ban Khởi nghĩa do đồng chí Trần Quang Khanh làm Trưởng ban và ra “Chỉ thị sắt” nhắc các địa phương không được tự động mà phải chờ lệnh cấp trên..
An Thái
An Thái là một thị tứ nhỏ của xã Nhơn Phúc, thị xã An Nhơn, với những ngôi nhà cũ kỹ, rêu phong nằm bên sông. Làng võ An Thái là một trong những nổi tiếng hiện còn của Bình Định. Thế kỷ XIX, vùng đất này đã đón tiếp nhiều người Hoa, trong đó, có các võ sư và dần hình thành hai phái: phái người Việt của cụ Đoàn Dũ và phái người Hoa của ông Khánh Ngôn bảo trợ. Nhưng đến giữa thế kỷ XIX thì cả hai đều tàn lụi. Đầu Đầu thế kỷ XX, làng võ An Thái xuất hiện của phái quyền Tàu mà ông Diệp Trường Phát (thường gọi là Tàu Sáu) là người khai mở. Ngoài phái cụ Tàu Sáu, An Thái còn có nhiều người học võ nổi tiếng khác như ông Lài, ông Chín Chung, ông Lâm Bình Sơn, hoặc ông Ấm Hổ… Về nữ giới, có bà Đào Thị Sanh là người đầu tiên mở lò luyện võ cho phái nữ ở xứ này. Sau năm 1975, An Thái vẫn còn bốn lò võ lớn là Bình Sơn, Hải Sơn, Quách Cang (tức phái Tàu Sáu) và Hồ Hoành. Đến nay, trên đất An Thái chỉ còn võ đường Bình Sơn.
Lễ hội Đổ Giàn tổ chức vào ngày rằm tháng 7 bốn năm một lần (các năm Tỵ, Dậu, Sửu) mang đậm tinh thần thượng võ và là một lễ hội văn hoá đặc sắc của miền đất võ Bình Định. An Thái còn nổi tiếng với đặc sản bún Song Thằn chất lượng cao, làm bằng bột đậu xanh.
An Thường
An Thường xưa kia có tên là làng An Long thuộc Ô Kim, huyện Bồng Sơn, phủ Hoài Nhơn, năm 1602, thời Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đổi thành An Thượng thuộc phủ Quy Nhơn. Năm 1802, Vua Gia Long đổi là An Thường thuộc dinh Bình Định, nay thuộc xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân. An Thường là quê hương của chiến sĩ Cần Vương Tăng Bạt Hổ. Nơi đây nổi tiếng vê nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa. Thời kháng chiến chống Pháp, lụa đậu tư, đậu sáu và tuýt-xo An Thường nổi tiếng liên khu V.
Thời kháng chiến chống Pháp, An Thường là địa bàn đứng chân của bệnh viện phía bắc tỉnh và các lớp chuyên khoa của Trường Trung học Nguyễn Huệ.
Năm 1999, An Thường được chia làm 2 thôn: An Thường 1 và An Thường 2.
An Tượng
An Tượng là con sông nhỏ phát nguyên từ Hòn Bà, phía bắc hòn Ông, nằm trong địa phận thị xã An Nhơn. Sông chảy từ nam ra bắc, qua vùng núi An Tượng, uốn khúc quanh co qua các vùng đồng bằng rồi hợp với sông Cửa Tiền, một nhánh của sông Côn chảy vào đầm Thị Nại. Nước sông An Tượng không dồi dào nên được coi là phụ lưu của sông Côn.
Sông nổi danh là nhờ có nguồn An Tượng xưa kia là nơi giao dịch giữa các lái buôn người Kinh và người Thượng, nên trong dân gian có câu ca dao “Ai về nhắn với nậu nguồn, Mít non gửi xuống, cá chuồn gửi lên”.Tại đây, triều Nguyễn đã lập thủ sở với chức Trấn thủ Thừa biện để coi giữ, nhưng đến năm 1899 thì bị triệt bỏ và đặt “mậu dịch thị trường” để thu thuế.
Tại vùng núi An Tượng và Dương An, năm 1799, Trần Quang Diệu đã đem quân Tây Sơn đến đánh đuổi quân Nguyễn Ánh ra khỏi vùng đất này, rồi chiếm lại thành Quy Nhơn.
An Vinh
An Vinh (thuộc xã Tây Vinh, huyện Tây Sơn) là làng võ nổi tiếng của tỉnh Bình Định nằm ở tả ngạn sông Côn, đối diện bên kia sông là làng võ An Thái (xã Nhơn Phúc, thị xã An Nhơn).
An Vinh nổi tiếng về quyền thuật, với nhiều môn phái. Đứng đầu các môn phái võ An Vinh là Nguyễn Ngạt (Hương mục Ngạc). Các võ sư nổi tiếng của làng An Vinh, ngoài Hương mục Ngạc còn có Khiến Phạm, Năm Nghĩa, Hương kiểm Cáo (con Hương mục Ngạc), Bảy Lụt, bà Tám Càng, Đinh Hề, Ba Thông, Tuần Sửu, Sáu Hà, Bốn Mỹ...
Anh hùng Nguyễn Lương Am
Nguyễn Lương Am, kỹ sư Thuỷ lợi, sinh năm 1954, quê xã Giao Yến, huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Xây dựng 47. Được tuyên dương Chiến sĩ thi đua toàn quốc năm 2000; năm 2005 được phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới.
Anh hùng Trần Hanh
Trần Hanh, quê xã Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ, công tác tại Nông trường Con Cuông, tỉnh Nghệ An, có thành tích đặc biệt xuất sắc trong chăn nuôi bò, tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Anh hùng Nguyễn Hoàng
Nguyễn Hoàng, quê huyện Phù Cát, công nhân xưởng Quân bưu 320 thời kháng chiến chống Pháp, được phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động tại Đại hội Chiến sĩ thi đua và Chiến sĩ gương mẫu toàn quốc (tháng 5.1952).
Anh hùng Lê Minh Tấn
Lê Minh Tấn, dược sĩ cao cấp, sinh năm 1950, quê xã Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ, Tổng Giám đốc Tổng công ty Dược - Trang thiết bị y tế Bình Định (BIDIPHAR). Năm 2005, được phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới.
Anh hùng lao động tập thể: Bưu điện An Nhơn (1985), Hợp tác xã Nông nghiệp Nhơn Khánh (1985), xã Cát Hanh (1985), Xí nghiệp Quản lý đường sắt Nghĩa Bình (1985), Công ty Xây dựng 47 (2000), Công ty Dược-Trang thiết bị y tế Bình Định (2004), Công ty cổ phần Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Bình Định (2005), Công ty cổ phần Xây lắp điện Tuy Phước (2005), Hợp tác xã Nông nghiệp thị trấn Bình Định (2005).
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Tính đến năm 2004, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, tỉnh Bình Định có 10 huyện, thành phố; 82 xã, phường, thị trấn; 28 đơn vị và 54 cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân được phong tặng danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Huyện An Lão có 6 đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang là Nhân dân và Lực lượng vũ trang huyện; 5 xã: An Quang, An Hưng, An Dũng, An Hoà và An Vinh.
Huyện Hoài Ân có 11 đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang gồm Nhân dân và Lực lượng vũ trang huyện; Ban An ninh huyện và 9 xã: Ân Hảo, Ân Tín (nay gồm Ân Tín và Ân Mỹ), Ân Tường (nay gồm Ân Tường Đông, Ân Tường Tây), Ân Thạnh, Ân Phong, Ân Nghĩa, Ân Hữu, Ân Đức và Bok Tới.
Huyện Hoài Nhơn có 19 đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang là Nhân dân và Lực lượng vũ trang huyện; Đại đội 2 bộ đội địa phương huyện; Ban An ninh huyện; Ban An ninh xã Tam Quan Bắc; Đội Du kích xã Hoài Thanh (nay gồm Hoài Thanh và Hoài Thanh Tây); Đội Du kích xã Hoài Hảo (nay gồm Hoài Hảo và Hoài Phú); Đội Du kích xã Hoài Châu (nay gồm Hoài Châu và Hoài Châu Bắc); Đội Du kích xã Hoài Sơn, Đội Du kích xã Tam Quan; Đôi Du kích Tam Quan Nam và 9 xã: Hoài Châu, Hoài Thanh, Hoài Hảo, Hoài Mỹ, Hoài Hương (nay gồm Hoài Hương và Hoài Hải), Hoài Đức, Hoài Tân, Hoài Xuân và thị trấn Bồng Sơn.
Huyện Phù Cát có 10 đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang là Nhân dân và Lực lượng vũ trang huyện; Đội Trinh sát vũ trang Ban An ninh huyện; Ban An ninh xã Cát Hanh và 7 xã: Cát Hanh, Cát Hiệp (nay gồm Cát Hiệp, Cát Lâm), Cát Sơn, Cát Trinh (nay gồm Cát Trinh, Cát Tân và thị trấn Ngô Mây), Cát Tài, Cát Nhơn và Cát Chánh (nay gồm Cát Chánh, Cát Tiến).
Huyện Phù Mỹ có 14 đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang là Nhân dân và Lực lượng vũ trang huyện; Đội Trinh sát vũ trang Ban An ninh huyện và 12 xã: Mỹ Hiệp, Mỹ Tài, Mỹ Đức (nay gồm Mỹ Đức và Mỹ Châu), Mỹ Thọ, Mỹ Thắng, Mỹ An, Mỹ Trinh, Mỹ Lộc, Mỹ Lợi (nay gồm Mỹ Lợi và thị trấn Bình Dương), Mỹ Chánh (nay gồm Mỹ Chánh và Mỹ Chánh Tây), Mỹ Thành và Mỹ Phong.
Huyện Tây Sơn có 10 đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang là Nhân dân và Lực lượng vũ trang huyện; Ban An ninh huyện và 8 xã: Bình An (nay gồm Tây Bình, Tây Vinh, Tây An), Bình Giang (nay gồm Tây Giang, Tây Thuận), Bình Phú (nay gồm Tây Phú, Tây Xuân và thị trấn Phú Phong), Bình Tường, Bình Hoà, Bình Tân, Bình Thành và Bình Thuận.
Huyện Tuy Phước có 12 đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang là Nhân dân và Lực lượng vũ trang huyện; Ban An ninh huyện và 10 xã: Phước Sơn, Phước Hoà, Phước Thắng, Phước An, Phước Quang, Phước Thuận, Phước Nghĩa, Phước Hiệp, Phước Hưng và Phước Long (nay gồm thị trấn Diêu Trì của huyện Tuy Phước và 2 phường Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân thuộc thành phố Quy Nhơn).
Huyện Vĩnh Thạnh có 8 đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang là Nhân dân và Lực lượng vũ trang huyện; Ban An ninh huyện và 6 xã: Vĩnh Hiệp, Vĩnh Quang, Vĩnh Sơn, Vĩnh Kim, Vĩnh Hoà và Vĩnh Hảo.
Thành phố Quy Nhơn có 4 đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang là Nhân dân và Lực lượng vũ trang thành phố; Ban An ninh thị xã; Nhân dân và Lực lượng vũ trang phường Đống Đa; Nhân dân và Lực lượng vũ trang phường Nhơn Bình.
Thị xã An Nhơn có 12 đơn vị được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang gồm Nhân dân và Lực lượng vũ trang huyện; Ban An ninh huyện và 10 xã, phường: Nhơn Mỹ, Nhơn An, Nhơn Lộc (nay gồm Nhơn Lộc và Nhơn Tân), Đập Đá, Nhơn Hậu, Nhơn Hưng, Nhơn Phong, Nhơn Hạnh, Nhơn Khánh và Nhơn Phúc.
Anh hùng - liệt sĩ
Đến năm 2004, tỉnh Bình Định có gần 31.000 liệt sĩ, hơn 20.000 gia đình liệt sĩ, trong đó có 134 gia đình có 4, 5, 6 con là liệt sĩ. Nhiều liệt sĩ được truy tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Anh hùng - liệt sĩ Trần Bá
Trần Bá sinh năm 1923, quê xã Phước Long, huyện Tuy Phước. Ông tham gia cách mạng tháng 8.1945; năm 1946 được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Thời kháng chiến chống Pháp, đồng chí Trần Bá là Tỉnh uỷ viên Bình Định, Bí thư huyện uỷ Tuy Phước.
Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí Trần Bá là Đại tá quân Giải phóng, Phó trưởng ban Binh vận Trung ương cục Miền Nam. Đồng chí hy sinh ngày 15.5,.1963, được truy tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Anh hùng - liệt sĩ Vũ Bảo
Vũ Bảo sinh năm 1949, quê thôn An Quang (Đề Gi), xã Cát Khánh, huyện Phù Cát.
Tháng 7 năm 1964, sau khi ta mở ra một mảng vùng giải phóng phía đông Phù Cát và đông Tuy Phước, Mỹ-nguỵ liên tiếp mở các trận càn quét đánh phá ác liệt các vùng ta vừa mới mở ra. Mấy chục cán bộ cách mạng đang đứng chân tại xã Cát Khánh, vì trong xóm làng chưa có công sự bí mật nên phải vượt đầm Đề Gi để sang thôn Vĩnh Lợi, xã Mỹ Thành, huyện Phù Mỹ lánh càn. Người lớn không ai dám chèo thuyền vì sợ qua đầm, dễ bị máy bay địch phát hiện bắn chết. Trong lúc mọi người đang suy tính cách lánh càn thì một cháu bé 15 tuổi tên là Vũ Bảo, nhanh chóng kéo thuyền vào bờ, hối hả giục cán bộ mau xuống thuyền vì tiếng súng quân địch đi càn mỗi lúc một thêm gần. Khoảng 15 cán bộ xã, huyện vội vã lên thuyền. Máy bay địch bay đến quần đảo trên không, xã súng bắn vào những người đang đi trên thuyền được nguỵ trang bằng những cành cây lá xanh. Vũ Bảo hô to như ra mệnh lệnh: “Các chú cúi đầu xuống! Bình tĩnh, thuyền sắp đến bờ bên kia đầm rồi!”. Đoàn cán bộ vừa lên bờ chạy tán loạn để tránh làn đạn của địch thì cùng lúc đó, Vũ Bão bị trúng đạn địch và hy sinh.
Vũ Bảo đã được Đảng và Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Anh hùng - liệt sĩ Huỳnh Thị Đào
Huỳnh thị Đào quê xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Thạnh. Thời kháng chiến chống Mỹ, chị là Huyện đội phó Huyện đội Bình Khê đã lập được nhiều chiến công xuất sắc.
Ngày 6.8.1967, Huỳnh Thị Đào trực tiếp chỉ huy trận đánh phục kích đoàn xe quân sự của địch đang hành quân trên đường 19, đoạn Vườn Xoài-Vĩnh Thạnh, diệt một trung đội biệt kích, phá huỷ 3 xe GMC. Trước đó, chị đã chỉ huy trận đánh phục kích ở Truông Rễ, diệt 2 tiểu đội lính Nam Triều Tiên. Tính đến đầu năm 1970, Huỳnh Thị Đào đã chỉ huy đánh địch 65 trận, diệt 95 tên (có 24 lính Nam Triều Tiên), phá huỷ 3 xe quân sự, đánh sập 12 lô cốt, 4 cầu, thu 25 súng các loại.
Trong trận đánh ngày 16.1.1970, Huỳnh Thị Đào bị thương lủng bụng, nhưng sau khi băng bó vết thương, chị vẫn tiếp tục chiến đấu, cố sức cõng các đồng đội bị thương ra khỏi trận địa. Máu ra nhiều, Huỳnh Thị Đào bị kiệt sức. Khi đồng đội khiêng chị về đến trạm y tế thì vết thương đã nhiễm trùng, chị quá yếu nên các y, bác sĩ không dám gây mê để phẫu thuật. Thấy các thầy thuốc đang phân vân thì Đào nói: ”Các đồng chí cứ mổ đi, nếu tôi có mệnh hệ gì, thì rút kinh nghiệm để cứu chữa các đồng chí khác“. Huỳnh Thị Đào trút hơi thở cuối cùng sau khi được phẫu thuật vài giờ.
Là một nữ chỉ huy mưu trí, dũng cảm, chiến đấu ngoan cường, lúc bị thương nặng vẫn sẵn sàng quên mình vì đồng đội và cho đến hơi thở cuối cùng vẫn nghĩ đến đồng đội, liệt sĩ Huỳnh Thị Đào đã được Đảnag và Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Anh hùng - liệt sĩ Phạm Thị Đào
Trong phong trào diệt ác năm 1970 của quân dân Bình Định, ở huyện Hoài Nhơn có các đội “Chim én“ do các thiếu niên gái làm nòng cốt, trong đó có Phạm Thị Đào, Võ Thị Huy được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Phạm Thị Đào quê xã Hoài Thanh, huyện Hoài Nhơn. Ngày 7.2.1970, Phạm Thị Đào anh dũng dùng súng ngắn diệt tên ác ôn khét tiếng ở xã Hoài Thanh, tên là Huân. Địch truy bắt Đào, tra tấn cực hình. Chúng cột Đào sau xe ô tô, cho kéo lê trên đường quốc lộ. Đau đớn tột cùng, nhưng Đào vẫn kiên cường, bất khuất, không một lời khai báo. Cuối cùng, địch đưa Đào đi xử bắn. Trước lúc hy sinh Phạm Thị Đào hô vang: ”Hồ Chí Minh muôn năm!”,”Đả đảo đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai bán nước“.
Anh hùng - liệt sĩ Nguyễn Thị Hãnh
Nguyễn Thị Hãnh quê xã Mỹ Tài, huyện Phù Mỹ, cán bộ chỉ huy đại đội 2 bộ đội địa phương huyện Phù Mỹ.
Ngày 12.4.1970, trong khi cải trang đi nắm tình hình địch, Nguyễn Thị Hãnh bị địch bắt giam tại Chi Cảnh sát Phù Mỹ. Chúng dùng mọi cực hình tra tấn rất dã man, nhưng Hãnh không hề khai báo. Chúng xoay sang mua chuộc, dụ dỗ, Hãnh chửi thẳng vào mặt những tên ác ôn “Tao thà chết chứ không đội trời chung với bọn bay”. Ngay trong đêm đó, Hãnh cùng 4 chị em bị địch giam trong tù tìm cách vượt ngục. Lợi dụng sự sơ hở của địch, Hãnh nằm im trong hố rác, chờ đến đêm khuya, tự mình lần mò gỡ mìn, vượt qua 7 lớp rào kẽm gai dày đặc của địch, tìm gặp cơ sở đưa ra vùng giải phóng, về lại đơn vị tiếp tục chiến đấu.
Năm 1972, với cương vị là Chính trị viên đại đội, Nguyễn Thị Hãnh trực tiếp chỉ huy đơn vị đánh vào trụ sở xã Mỹ Chánh (Phù Mỹ); chị đảm nhận mũi tấn công chủ yếu đánh chiếm và làm chủ trụ sở trong nhiều ngày liền. Sáng 22.10.1972, địch tổ chức phản kích, Hãnh chỉ huy đơn vị đánh lui nhiều đợt tấn công của địch. Đơn vị được lệnh rút lui để bảo toàn lực lượng, Hãnh xung phong ở lại chỉ huy một tổ đánh chặn địch. Khi đồng đội rút lui an toàn thì các chiến sĩ trong tổ đều hy sinh, chỉ còn lại một mình Hãnh. Nhưng chị vẫn tiếp tục chiến đấu ngoan cường. Đến lúc bị trọng thương, kiệt sức, Nguyễn Thị Hãnh chờ cho giặc đến gần, tung lựu đạn diệt thêm nhiều tên nữa.
Liệt sĩ Nguyễn Thị Hãnh đã được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.uy được kết nạp vaòHuy
Anh hùng - liệt sĩ Lê Thị Khuôn
Lê Thị Khuôn quê xã Mỹ Thắng, huyện Phù Mỹ, là đảng viên Đảng Nhân dân cách mạng Miền Nam (Đảng Cộng sản Việt Nam). Ngày 17.7.1969, đồng chí Khuôn đang nằm hầm bí mật thì bị địch phát hiện. Chị liền tung nắp hầm lên và cho nổ lựu đạn diệt địch và anh dũng hy sinh. Nhân dịp kỷ niệm Ngày Quốc khánh 2.9.1998, nữ đảng viên, liệt sĩ Lê Thị Khuôn đã được Đảng và Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Anh hùng - liệt sĩ Trần Thị Kỷ
Trần Thi Kỷ sinh năm 1947 tại thôn Tân Đức, xã Nhơn Mỹ, thị xã An Nhơn. Là con một đảng viên cộng sản, cán bộ kháng chiến thời chống Pháp, nhà nghèo, lại sinh ra và lớn lên ở một vùng giàu truyền thống cách mạng, nên từ nhỏ Trần Thi Kỷ đã sớm giác ngộ cách mạng. Đầu năm 1965, xã Nhơn Mỹ và các xã lân cận được giải phóng. Trần Thị Kỷ cùng anh trai là Trần Văn Trà đều xin vào du kích xã.
Năm 1966, giặc Mỹ và quân chư hầu ráo riết càn quét lấn chiếm vùng giải phóng, thương binh của ta chuyển về Tân Đức ngày một nhiều. Trước yêu cầu cấp thiết phải có người biết băng bó, thuốc men để cứu chữa thương binh, Trần Thị Kỷ được cử đi học lớp y tá cấp tốc. Từ cứu thương, điều trị, tìm kiếm lương thực đến đào hầm giấu thương binh, một mình dìu thương binh lên xuống hầm, dù khó khăn, vất vả mấy, Trần Thi Kỷ cũng không hề phàn nàn, trái lại luôn làm với tinh thần phấn khởi, tự giác và trách nhiệm cao.
Một buổi sáng tháng 2.1966, trong khi Trần Thị Kỷ đang ngồi canh giấc ngủ cho thương binh và du kích thì có một cánh quân Đại Hàn đông nghịt từ Gò Quánh kéo lên Tân Đức. Trần Thị Kỷ vội lay gọi du kích triển khai chiến đấu, riêng phần mình thì lo vực từng thương binh xuống hầm bí mật. Khi địch đến gần, du kích đã rút xuống các công sự mật, Trần Thi Kỷ vẫn bình tĩnh và cẩn thận đi xoá sạch dấu vết cho từng hầm bí mật, rồi mới hối hả xuống hầm mình.
Địch dùng cuốc đào, nắp hầm của Trần Thi Kỷ bị lộ. Địch ném lựu đạn cay xuống hầm. Trần Thị Kỷ ngất đi. Một tên lính địch xuống hầm kéo Trần Thi Kỷ lên để nằm trên mặt đất. Vây quanh cô gái là hàng chục nòng súng địch. Tên Thiếu uý Đại Hàn đích thân đánh đập tra khảo, bắt Trần Thị Kỷ phải chỉ hầm bí mật. Những cú giày đinh đá thốc, những báng súng quật vào ngực, vào hông Trần Thị Kỷ. Sợ ở đây gần các hầm bí mật có thương binh và du kích núp, không may bị địch phát hiện thì tổn thất, Trần Thị Kỷ liền bảo bọn địch “Đi, dẫn tao đi, tao sẽ chỉ cho...”. Chúng giải Trần Thi Kỷ đi khắp làng, nhưng không thấy cô gái chỉ ra một hầm bí mật nào. Biết bị đánh lừa, chúng liền giải chị về chỗ cũ, tiếp tục tra tấn cực hình.
Không moi được một lời khai nào của Trần Thị Kỷ, sáng sớm hôm sau, địch đem treo ngược chị lên cây, buộc một chân chị vào cây mít, còn chân kia thì buộc vào cây dừa gần đó; mái tóc dài, đen nhánh của người con gái Tân Đức xõa xuống chạm đất. Địch dùng một can xăng tưới khắp thân người Trần Thị Kỷ rồi châm lửa đốt. Toàn thân chị phựt thành một ngọn lửa cao. Trong khối lửa đỏ rực, tiếng hô bất khuất của Trần Thị Kỷ vang vọng khắp nơi: “Đả đảo đế quốc Mỹ! Đả đảo quân xâm lược! Bác Hồ muôn năm! Vĩnh biệt cha mẹ! Vĩnh biệt các đồng chí!”.
Khi hy sinh, Trần Thị Kỷ vừa tròn 19 tuổi.
Năm 1995, liệt sĩ Trần Thị Kỷ được Chủ tịch Nước truy tặng danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Anh hùng - liệt sĩ Võ Lai
Anh hùng liệt sĩ Võ Lai quê thôn Tả Giang, xã Tây Giang, huyện Tây Sơn. Anh sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo có 6 anh chị em, trong đó có 3 người tham gia kháng chiến chống Mỹ.
Lúc lên 13, Võ Lai đã phải đi chăn bò, làm thuê, làm mướn để tự mưu sinh và góp phần giúp đỡ gia đình. Năm 1960, tình hình tỉnh nhà hết sức khó khăn, địch ráo riết khủng bố, bắt bớ các cơ sở cách mạng. Không thể tiếp tục ở lại địa phương bí mật hoạt động cách mạng, Võ Lai tình nguyện thoát ly gia đình, gia nhập lực lượng vũ trang Giải phóng (lúc 23 tuổi). Anh là một trong những thanh niên đầu tiên của huyện Bình Khê có mặt trong bộ đội tỉnh.
Quá trình công tác và chiến đấu, Võ Lai luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao và từng bước trưởng thành. Từ một chiến sĩ xạ thủ trung liên anh lần lượt đảm nhận các chức vụ Tiểu đội trưởng, Trung đội trưởng, Đại đội trưởng và Tiểu đoàn trưởng, trực tiếp tham gia và chỉ huy chiến đấu trên 30 trận, diệt hàng trăm tên Mỹ-nguỵ và Nam Triều Tiên, trong đó có 2 trận đánh tiêu biểu do Võ Lai trực tiếp chỉ huy là trận đánh Mỹ đầu tiên ở thôn Thuận Hạnh, xã Bình Thuận vào cuối năm 1965, diệt 195 tên Mỹ, mở đầu phong trào đánh Mỹ của quân dân Bình Định và trận chống quân Nam Triều Tiên càn quét, đánh phá, gây tội ác man rợ tại xã Bình An. Trận này, Võ Lai bị thương nặng, nhưng vẫn tiếp tục chỉ huy đơn vị trụ bám, quầng đánh địch, diệt gần một trăm tên.
Năm 1967, Võ Lai được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, sau đó được đề bạt làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 52 của Tỉnh đội.
Giữa tháng 8.1968, Tiểu đoàn 52 đảm nhận nhiệm vụ đánh địch, mở kẹp ở 2 thôn Phú Mỹ, Phú Thọ xã Bình Phú, huyện Bình Khê. Trong lúc địch phản kích quyết liệt, trận địa đang còn thương binh của ta nằm lại, Võ Lai táo bạo tổ chức một mũi xông vào để đưa đồng đội bị thương ra. Đồng chí bị trúng đạn địch và hy sinh ngày 18.8.1968, năm 31 tuổi.
Anh hùng - liệt sĩ Trần Thị Liên
Trần Thị Liên quê xã Hoài Châu, huyện Hoài Nhơn.
Cuối năm 1967, quân dân Bình Định khẩn trương và náo nức chuẩn bị cho cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân. Chỉ trong một thời gian ngắn, toàn tỉnh thành lập được đội quân chính trị và binh vận hùng hậu gồm 590 đại đội, quân số 270.000 chiến sĩ. Các huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ và một số xã ở Phù Cát đã tổ chức tập dượt đội quân này. Đặc biệt, khí thế quần chúng huyện Hoài Nhơn lên rất cao. Trong quá trình tập dượt, 30.000 nhân dân, phần đông là phụ nữ, tổ chức bao vây quận lị Bồng Sơn, thị trấn Tam Quan và các căn cứ, đồn bốt địch. Ngày 20.1.1967, trong cuộc quần chúng xuống đường tiến vào thị trấn Tam Quan, Trần Thị Liên dũng cảm giương cờ Mặt trận đi đầu đoàn quân chính trị, hô vang khẩu hiệu chống Mỹ. Hòng uy hiếp và đè bẹp tinh thần đấu tranh của quần chúng đang dâng cao như nước thuỷ triều, địch bắt chị Liên đem xử bắn. Trước lúc hy sinh, chị dõng dạc hô to : ”Đảng Nhân dân Cách mạng Miền Nam muôn năm!“,”Việt Nam nhất định thắng! Mỹ nhất định thua!“.
Năm 1998, liệt sĩ Trần Thị Liên được ảnag và Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Anh hùng - liệt sĩ Ngô Mây
Ngô Mây sinh năm 1926 tại xã Cát Chánh, huyện Phù Cát; cha tên là Ngô Dụ, mẹ tên Phạm Thị Quý.
Ngô Mây con nhà nghèo, thuở nhỏ chỉ học ở trường làng, không đỗ đạt gì. Cách mạng tháng 8.1945 thành công, trong phong trào thanh niên tòng quân “Nam tiến”, Ngô Mây hăng hái lên đường gia nhập Vệ quốc quân và trở thành chiến sĩ trong Đại đội cảm tử quân.
Cuối năm 1947, quân Pháp từ An Khê mở cuộc hành quân càn quét xuống vùng tư do Bình Định. Bộ đội ta quyết tâm bẻ gãy cuộc càn quét của địch. Đại đội 51A do Đại đội trưởng Quách Tử Hấp chỉ huy, được giao nhiệm vụ tổ chức phục kích địch ở khu vực cầu Suối Vối-Rộc Dừa. Lực lượng đánh địch gồm ba tổ: tổ hoả lực có 2 trung liên, 3 tiểu liên; tổ đánh bom gồm 3 chiến sĩ (Mây, Vi, Tường) và tổ vận tải có 9 người. Trước khi xuất quân, Đại đội trưởng trình bày phương án tác chiến trước các chiến sĩ và đề xuất cần có một chiến sĩ ôm bom cảm tử lao vào đội hình địch. Tất cả các chiến sĩ trong đại đội đều giơ tay xung phong. Đại đội trưởng phân vân chưa biết chọn ai và ra lệnh bỏ tay xuống. Ngô Mây vẫn đưa cánh tay vươn thẳng với thái độ kiên quyết và tha thiết xin được nhận nhiệm vụ vinh quang ấy. Và cuối cùng, người chiến sĩ trẻ mới bảy tháng tuổi quân đã được toại nguyện. Đêm hôm đó, Ngô Mây bình thản viết thư gởi về cho mẹ, trong thư có đoạn: “Thưa mẹ, không có gì đáng buồn cả, con của mẹ đã chọn một cái chết xứng đáng, cái chết vinh quang nhất của người chiến sĩ quân đội cách mạng...”.
Ngày 12.11.1947, quân Pháp lọt vào trận địa phục kích của quân ta. Hoả lực ta vừa nổ súng thì quân Pháp dùng hoả lực mạnh khống chế, ào ạt phản công. Trận đánh trở nên vô cùng ác liệt, gay go. Ngô Mây, cổ quàng khăn đỏ, bật dậy, ôm bom lao thẳng vào đội hình địch. Bom nổ rền vang cả vùng núi An Khê. Hơn 40 tên lính Âu Phi và 2 xe địch tan xác. Quân địch vô cùng khiếp sợ, tranh nhau tháo chạy tán loạn. Âm mưu địch càn quét lấn chiếm vùng tư do Bình Định, từ đó tràn xuống nống lấn các tỉnh ven biển khu V, bị thất bại.
Tiếng bom Ngô Mây, biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, mãi mãi trường tồn và đi vào lịch sử kháng chiến của nhân dân Bình Định.
Ngô Mây là chiến sĩ đầu tiên của tỉnh Bình Định được phong tặng danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.
Anh hùng - liệt sĩ Võ Mười
Võ Mười, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn đặc công D10, quê huyện Tây Sơn. Trong trận tập kích chiến lược Tết Mậu Thân-1968 đánh vào thị xã Quy Nhơn, Võ Mười trực tiếp chỉ huy D10 đánh chiếm Quân vụ thị trấn giải thoát 22 cán bộ và một số cơ sở cách mạng của ta, trong đó có Bí thư Thị uỷ Biên Cương; đánh chiếm và làm chủ trận địa Đài Phát thanh nguỵ quyền tỉnh Bình Định, kiên cường trụ bám đánh lui 4 đợt phản kích của 2 tiểu đoàn quân nguỵ, diệt và bắt 200 tên. Khi quân ta bắn hết đạn, Võ Mười và Bí thư Thị uỷ Biên Cương đã anh dũng hy sinh.
Anh hùng - liệt sĩ Ngô Lê Tân
Ngô Lê Tân sinh ngày 3.3.1933, là con trai của nhà giáo Ngô Lê Tố, một nhân sĩ yêu nước, quê ở Đề Gi, xã Cát Khánh, huyện Phù Cát.
Khi còn học tại trường Trung học Nguyễn Huệ, Ngô Lê Tân nổi tiếng giỏi môn vật lý. Năm 1950, sau khi học xong lớp đệ tam, hưởng ứng phong trào thanh niên học sinh tình nguyện tòng quân giết giặc, cứu nước, Ngô Lê Tân gia nhập bộ đội. Anh được đưa về Đài Tiếng nói Miền Nam (đặt tại khu V) học lớp kỹ thuật thông tin đầu tiên và được giữ lại công tác tại Đài. Anh đã cùng các đồng nghiệp phát huy nhiều sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, đảm bảo lắp ráp và sửa chữa nhiều loại máy vô tuyến điện phục vụ nhiệm vụ của Đài và công tác thông tin của các cơ quan thuộc Uỷ ban Kháng chiến - Hành chính Nam Trung Bộ, Bộ Tư lệnh khu V và một số tỉnh trong liên khu.
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, 1955, Ngô Lê Tân được phân công ở lại miền Nam hoạt động. Anh giữ chức vụ Đại đội phó, Trưởng xưởng Sửa chữa thông tin Nam Trung Bộ. Thời gian công tác tại Xưởng, anh đã tích cực tự học, nghiên cứu qua sách vở và thực tiễn để nâng cao trình độ mọi mặt. Ngô Lê Tân đã phát huy nhiều sáng, cải tiến và chế tạo những bộ phận máy móc thông tin phức tạp, phù hợp với điều kiện chiến trường, góp phần phục vụ chiến đấu thắng lợi. Trong đó có những sáng kiến có giá trị như làm máy phát sóng chuẩn theo nguyên tắc bán dẫn, làm thiết bị đo bức xạ ăng-ten giản đơn. Không chỉ sửa chữa máy móc thông tin, anh còn nghiên cứu sửa chữa các loại súng, máy quay phim, làm đèn chiếu; tham gia giảng bài, giúp đỡ đồng đội nâng cao trình độ kỹ thuật.
Do có nhiều thành tích trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, Ngô Lê Tân được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng 3 và hạng 2, Huân chương Quân công hạng 2. Năm 1967, Ngô Lê Tân được phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Năm 1969, Ngô Lê Tân hy sinh tại chiến trường Quảng Đà (Quảng Nam, Đà Nẵng). Năm đó, anh tròn 36 tuổi và chưa lập gia đình.
Ngô Lê Tân là một tấm gương sáng về tinh thần tự học, cầu tiến bộ, vế ý thức vượt khó khăn, gian khổ, say mê sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật và về tinh thần thương yêu, giúp đỡ đồng đội, đồng nghiệp, lối sống giản dị, khiêm tốn, hoà đồng mọi người.
Anh hùng - liệt sĩ Ngô Trọng Thiên
Ngô Trọng Thiên sinh năm 1951 ở thôn Cửu Lợi Đông, xã Tam Quan Nam, huyện Hoài Nhơn. Năm 1954, cha tập kết ra Miền Bắc, Thiên ở lại quê nhà, được mẹ tần tảo dưỡng nuôi, dạy dỗ chu toàn.
Lớn lên trong một gia đình bần ngư, tuổi thơ tận mắt nhìn thấy cảnh bom đạn và sự tàn sát dã man của Mỹ-nguỵ đối với đồng bào, tinh thần chiến đấu và sự hy sinh dũng cảm của cán bộ, đảng viên Cộng sản, Thiên càng nung nấu ý chí tiếp bước cha anh. Năm 13 tuổi (1964), Thiên xin phép mẹ được tham gia hoạt động cách mạng, làm nhiệm vụ liên lạc với các cô, chú hoạt động bí mật trong lòng địch.
Lúc bấy giờ, những tên nguỵ quyền ở xã, ấp ra sức đàn áp phong trào cách mạng, kìm kẹp đồng bào ta. Để giành quyền làm chủ nông thôn, trước hết phải diệt ác, phá kìm. Huyện uỷ Hoài Nhơn cho thành lập các đội “Chim én” thiếu niên dũng cảm diệt ác. Ngô Trọng Thiên được chọn làm Tổ trưởng đội Chim én 3 người có nhiệm vụ không chỉ nắm tình hình dịch mà tổ chức diệt ác, phá tề.
Nhân cơ hội Hội đồng xã Hoài Xuân họp có nhiều tên ác ôn khét tiếng tham dự, Thiên giấu 2 quả lựu đạn trong người, cải trang làm học sinh tiếp cận, áp sát phòng họp, tung lựu đạn diệt ngay tại chỗ tên Ấp trưởng, làm bị thương 9 tên nguỵ quyền khác và rút lui an toàn. Trận đánh làm nức lòng nhân dân trong xã, đồng thời làm cho bọn nguỵ quân, nguỵ quyền địa phương nơm nớp lo sợ đến nỗi hơn nửa năm mà chúng không thể dựng lại cái gọi là Hội đồng xã. Từ trận thắng này, phong trào diệt ác của các xã huyện Hoài Nhơn lên rất mạnh.
Sau cuộc tập kích chiến lược Tết Mậu Thân 1968, Thiên được giao nhiệm vụ phối hợp cùng 2 chiến sĩ an ninh diệt tên Dương Văn Bảy, Xã trưởng ác ôn khét tiếng của xã Tam Quan Bắc. Thoáng thấy tên Bảy cùng tên Thư ký Hội đồng xã vào một quán phở ven đường quốc lộ, Thiên cải trang đi thẳng vào quán phở, còn 2 đồng đội thì phục kích vòng ngoài để hỗ trợ. Trong quán không chỉ có tên Bảy và tên Thư ký mà còn có thêm một tên cảnh sát nguỵ. Thiên quyết định diệt cả 3 tên. Thoáng thấy Thiên rút súng bóp cò, tên Bảy liền lao tới chụp khẩu súng, Thiên dùng thế võ quật ngã tên ác ôn và bắn bồi thêm một phát súng, diệt hắn ngay tại chỗ. Thấy vậy tên Thư ký và cảnh sát nguỵ vụt chạy, nhưng đều bị Thiên bắn chết tại chỗ. Cùng lúc đó, một tên lính Mỹ vừa từ trên ô tô bước xuống đường quốc lộ cũng bị Thiên hạ gục. Sau đó, Thiên và 2 đồng đội rút lui an toàn.
Năm 1973, Ngô Trọng Thiên là Huyện uỷ viên, Trưởng ban An ninh huyện, trực tiếp chỉ huy lực lượng an ninh huyện bám đất, bám dân, đánh bại hàng chục cuộc hành quân lấn chiếm của địch.
Ngày 27.3.1975, Ngô Trọng Thiên chỉ huy lực lượng an ninh huyện phối hợp với bộ đội huyện tấn công giải phóng quận lị Bồng Sơn. Ngày 28/3, trong khi đi xe lam từ Tam Quan về Bồng Sơn, giữa đường Thiên bị một toán tàn quân gần 30 tên địch cướp xe lam để trốn chạy về Quy Nhơn. Thiên liền nổ súng diệt tại chỗ 2 tên. Bọn địch nháo nhào chạy tản ra cánh đồng lúa. Thiên dùng súng AR15 của tên địch vừa bị diệt bắn chết thêm 5 tên khác. Súng Thiên hết đạn. Thấy chỉ có một mình Thiên, bọn địch liền tập trung hoả lực bắn vào Thiên xối xả. Ngô Trọng Thiên đã anh dũng hy sinh lúc mới 24 tuổi, khi quê hương vừa hoàn toàn giải phóng.
Liệt sĩ Ngô Trọng Thiên được Đảng và Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Anh hùng - liệt sĩ Võ Thị Yến
Võ Thị Yến là Huyện đội phó Huyện đội An Nhơn. Chị quê xã Nhơn Mỹ.
Giữa năm 1970, Võ Thị Yến và đồng đội đang nằm trong hầm bí mật thì bị địch phát hiện. Địch dùng hơi cay xịt xuống hầm và bắn xối xả trên miệng hầm. Võ Thị Yến và các chiến sĩ du kích mật ngoan cường giáng trả địch. Khi còn quả lựu đạn cuối cùng, Võ Thị Yến cùng đồng đội tung nắp hầm lên, cho lựu đạn nổ diệt nhiều tên địch và anh dũng hy sinh.
Nhân ngày Quốc khánh 2.9.1998, liệt sĩ Võ Thị Yến được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Ẩm thực
Trong dân gian Bình Định có nhiều món ăn ngon mang hương vị đặc trưng địa phương:
Bánh hỏi lòng heo
Làm bánh hỏi công phu hơn làm bún vì sợi bánh hỏi nhỏ, khô ráo hơn sợi bún. Thường người ta ăn bánh hỏi với thịt heo quay hay lòng heo, có bánh tráng nướng và các loại rau thơm, nước mắm vắt chanh, tạo thành món ăn mang đầy đủ chua cay, ngọt, béo, thơm ngon. Bánh hỏi thường dùng ăn điểm tâm là chính.
Trên địa bàn tỉnh Bình Định có nhiều địa phương làm bánh hỏi, nhưng nổi tiếng nhất là làng bánh hỏi Phương Danh (phường Đập Đá, thị xã An Nhơn).
Bánh ít lá gai
Bánh ít lá gai làm bằng bột nếp quết nhuyễn với nước cốt lá gai. Đem lá gai rửa 4-5 lần cho thật sạch rồi luộc chín, quết thật nhuyễn, vắt nhiều lần để lấy nước cốt. Có thể trộn vào lá gai một ít lá bạch đàn để bánh ít có mùi thơm và hương vị riêng. Đem nước cốt lá gai trộn đều với bột nếp. Nhân bánh làm bằng đậu xanh nấu chín, giã nhuyễn, thắng đường, xéo với dừa nạo thành sợi nhỏ, nặn thành viên nhỏ như trứng cút.
Ngắt một cục nhỏ bột lá gai đè bẹp trong lòng bay tay, đặt nhân vào giữa, bọc lại, vo tròn thành bánh, xong đem hấp hơi cho bánh chín. Dùng lá chuối xanh rửa sạch đem phơi nắng hay hơ lửa cho bớt giòn, lá trong, lá ngoài gói bánh sao cho có hình “nóc” thật đẹp. Sau khi gói bánh xong, lại đem hấp sơ qua cho các nếp gấp khỏi bung ra, nhưng không được hấp quá lâu làm mất màu xanh của lá.
Trong các đám cưới, đám giỗ ở các địa phương trong tỉnh, không bao giờ thiếu bánh ít lá gai vừa dùng làm thức ăn tráng miệng, vừa làm quà cho khách mang về tặng con cháu. Trong phong tục cưới xin ở Bình Định, mâm bánh ít lá gai làm lễ hồi dâu là không thể thiếu.
Bánh tráng
Nghề làm bánh tráng gạo hay bánh tráng mì (sắn) phổ biến ở nhiều địa phương trong tỉnh Bình Định. Nhưng bánh tráng trộn mè (vừng) đen hay trắng thì rất thịnh hành ở nhiều xã của huyện An Nhơn, nhất là Nhơn Lộc, Nhơn Hoà. Còn bánh tráng nước dừa thì chỉ có ở huyện Hoài Nhơn, nhất là Tam Quan.
Muốn làm bánh tráng, người ta đặt trên lò một nồi nước lớn, đun cho nước lúc nào cũng sôi, căng lên mặt nồi một tấm vải, đổ nước bột lên tráng vòng tròn cho đều, đậy nắp nồi lại, đến khi chín thì dùng một cây que dài nhỏ xeo đưa ra vỉ. Nguyên liệu làm bánh tráng là gạo đem ngâm nước xay thành bột hay tinh bột mì (sắn).
Bánh tráng có mấy loại: bánh tráng dày dùng để nướng, phải tráng hai lớp, khi đem nướng trên lửa than, bánh sẽ nở phồng lên; bánh tráng mỏng dùng nhúng nước cho dẻo để cuốn thức ăn như thịt, cá, trứng vịt luộc, rau sống, chấm nước mắm; bánh tráng siêu mỏng dùng làm chả ram.
Trong các bữa tiệc hay đám giỗ, người Bình Định thích ăn bánh tráng nướng trộn mè hơn là bánh phồng tôm. Vì bánh tráng nướng trộn mè, khi ăn thì rất giòn và có vị thơm ngon, beo béo của hạt mè. Dân lao động thì dùng bánh tráng sống hay bánh tráng nướng nhúng nước cho mềm, đem cuốn với rau sống, trứng vịt luộc, sang thì cá trụng, thịt heo, chấm nước mắm ăn.
Tương truyền bánh tráng, thịt thưng là món lương khô chiến lược của nghĩa quân Tây Sơn trong các trận tấn công thần tốc đánh bại quân xâm lược.
Hiện nay, bánh tráng gạo của xã Nhơn Lộc (thị xã An Nhơn) là sản phẩm xuất khẩu được thị trường nhiều nước châu Âu, châu Á ưa chuộng.
Bánh tráng nước dừa
Đó là bánh tráng làm bằng cùi cơm dừa già nghiền nhuyễn có trộn gia vị, nướng rất phồng, ăn rất béo, thơm, ngon, được sản xuất tại Tam Quan, Hoài Nhơn.
Bánh xèo Mỹ Cang
Bánh xèo được làm ở hầu khắp các địa phương trong tỉnh Bình Định, nhưng ngon nhất, nổi tiếng nhất là bánh xèo cô Năm ở Mỹ Cang (xã Phước Sơn, huyện Tuy Phước). Bánh xèo ở đây cũng đúc bằng nước bột gạo, tôm, thịt, giá như mọi nơi, nhưng do bí quyết chế biến bột và kỹ thuật đúc và làm nước chấm nên ăn rất hấp dẫn. Đặc biệt, tôm làm bánh xèo phải chọn kỹ, là thứ tôm đánh bắt đêm hôm từ đầm Thị Nại, phải còn sống nhảy tanh tách nên rất ngon (bởi vậy quán còn có tên Bánh xèo tôm nhảy Mỹ Cang).
Bún Song Thằn An Thái
(Xem vần L, mục Làng nghề Bún Song Thằn An Thái)
Bún tôm Châu Trúc
Tại huyện Phù Mỹ có nhiều nơi bán bún tôm, nhưng không nơi nào sánh bằng bún tôm Châu Trúc (nay thuộc xã Mỹ Châu, huyện Phù Mỹ).
Sợi bún làm bằng gạo. Gạo được ngâm nước đem xay thành bột, luộc trong nước sôi, rồi vớt ra vo thành viên nhỏ, bỏ vào ống rồi dùng cái nùi ép xuống thành con bún. Bún Châu Trúc ngâm gạo không để cách đêm như các nơi khác nên ăn ngon hơn. Dùng tôm tươi cho vào cối cùng với các thứ gia vị, giã nhuyễn, đổ nước vào nấu cho sôi để tôm thật chín. Xong, cho bún vào tô nước tôm, thêm gia vị, rắc rau thơm lên trên rồi ăn khi tô bún còn đang nóng.
Canh chua lá giang
Lá giang là loại lá có vị chua, mọc thành dây ven bờ rào, bụi rậm các đồi trọc, không hề được ai trồng. Lá giang nấu canh với cua đồng hay với tôm tươi giã nhuyễn, hoặc với đầu, cổ, chân giò, cánh thịt gà, tuy không phải là đặc sản, cũng không phải cao lương mỹ vị, nhưng rất được người dân Bình Định, người nghèo cũng như người khá giả ưa chuộng.
Nhiều người Bình Định ở xa quê nhà “ghiền” canh lá giang, vì không mua được lá giang tươi nên đã phơi khô lá giang mang theo để thỉnh thoảng nấu canh ăn để nhớ hương vị quê nhà.
Canh nước dừa
Canh nước dừa còn gọi là canh chay là món ăn khá phổ biến ở Bình Định, vì dùng muối chứ không dùng nước mắm để nêm.
Một nồi canh nước dừa có đủ các thứ: bí đỏ, mít ráo chín, đu đủ hườm, nấm hương... cho nước dừa vào, nấu cho chín rồi cho bún khô hoặc bún tươi vào cùng với nước cốt dừa và một ít đường trắng.
Cá bống kho tiêu
Ở tỉnh Bình Định, cá bống sông Lại nổi tiếng thơm ngon, tương truyền xưa kia được chọn làm đặc sản tiến cống lên nhà vua.
Cá chỉ có một xương sống, dưới bụng có một cục mỡ to bằng quả ớt. Thịt cá trắng tinh, thớ nhuyễn và có mùi thơm, không tanh như các loại cá khác.
Người giàu sang, quyền quý thì ăn cá bống kho tộ, dân dã thì thích ăn cá bống kho tiêu nên trong dân gian có câu “Cá bống kho tiêu, các thiều nấu ngọt”.
Cá chép hấp lá bầu
Cá chép làm sạch, ướp gia vị, đem đặt lên những lớp lá bầu xanh, đặt vào soong, rồi đậy lên trên con cá một lớp lá bầu nữa. Nồi cá hấp không cần chưng cách thuỷ mà đặt thẳng lên bếp lửa Trong quá trình đun, nước từ lá bầu toả nhiệt làm chín cá mà không hư soong, nồi. Cho miến tàu và cá chép hấp chín vào đĩa to. Lấy thịt heo ba chỉ thái thành sợi nhỏ cùng nấm mèo đã nấu chín và gừng thái nhỏ phủ đều lên thân cá. Gắp lá bầu đã hấp chín cho vào đĩa sao cho cá và lá bầu hài hoà. Cá hấp thấm cái béo của thịt heo ba chỉ, vị cay của gừng thấm vào lá bầu và thịt cá tạo thành một hương vị ấn tượng.
Cá chép Hầm Hô (Tây Sơn) nổi tiếng thơm ngon.
Chả cá Quy Nhơn
Chả cá là món ăn được chế biến từ cá. Chả cá dùng trong gia đình hay đãi khách thì nguyên liệu thường là cá thu, cá măng, lại thêm có tôm, cua, mực; nếu dùng đại trà, để bán quán thì thường dùng cá mối và các loại cá tạp khác, do đó chất lượng khác nhau.
Làm chả cá phải dùng nhiều gia vị để khử bớt mùi tanh của cá. Sau khi đã trộn gia vị, bỏ cá vào cối giã cho thật nhuyễn, dẻo; đem viên thành từng viên nhỏ rồi cho vào chảo dầu chiên vàng thì vớt ra; cũng có thể nặn thành viên tròn dẹp đem chiên rồi xắt nhỏ.
Chả cá thường dùng để ăn với bún, gọi là bún cá; cũng có thể dùng ăn với cơm. Bún cá là món ăn đặc sản của dân vùng biển Bình Định, nhất là Quy Nhơn. Từ chả cá, các quán ăn làm ra bánh canh chả cá, phở chả cá.
Hiện chả cá Quy Nhơn có mặt ở nhiều thị trường trong Nam, ngoài Bắc nước ta.
Chả cuốn Gò Bồi
Chả được làm bằng bánh tráng mỏng cắt thành miếng nhỏ bọc nửa con tôm rằn đã bóc vỏ, bỏ đầu, râu, ướp gia vị, nước mắm ngon đem chiên cho vàng và giòn. Trong món chả cuốn Gò Bồi không thể thiếu nem tươi nướng, cắt thành sợi nhỏ.
Khi ăn, dùng bánh tráng mỏng xoa nước, trải lên mâm, đem chả và sợi nem nướng bỏ vào giữa, sắp lên lớp rau răm sống, khế, dưa leo rồi cuốn lại. Ăn chả cuốn Gò Bồi phải chấm với nước mắm nhỉ nguyên chất. Ăn xong, thực khách sẽ cảm nhận hương vị khó quên như vị ngọt của tôm, vị béo của dầu, mỡ, vị chua ngon ngót của khế, mùi thơm của nem, chả...
Chạo tôm
Đem tôm rằn lột vỏ, bỏ đầu, giã nhuyễn, cho gia vị vào trộn đều. Lấy thanh mía lau róc sạch vỏ, chẻ làm tư rồi vót tròn như chiếc đũa, lấy thịt tôm bọc quanh chiếc đũa mía, chừa ra một đầu để cầm, sau đó đặt vào vỉ lót lá chuối tươi, cho lên bếp than đỏ để nướng. Khi thịt tôm chuyển từ màu hồng nhạt sang màu hồng tươi tức là chạo tôm đã chín, đem ăn với rau thơm.
Chạo tôm là món ăn hấp dẫn của nhân dân Gò Bồi.
Chim mía
Đây là loài chim nhỏ như chim sẻ sinh sống, ăn mồi trong những đám mía. Đem chim làm sạch lông, lấy tất cả bộ đồ lòng ra, tẩm gia vị rồi nướng hay chiên cho giòn rồi nhấm rượu, không gì ngon bằng.
Món ăn chim mía Phú Phong (huyện Tây Sơn) là nổi tiếng nhất. Nguyên trước kia, An Vinh, Thủ Thiện là hai vùng đất phù sa màu mỡ trồng nhiều mía nên có rất nhiều chim mía, dân làng bắt đem bán cho các quán ăn ở thị trấn Phú Phong. Từ đó món ăn chim mía Phú Phong còn lưu truyền đến bây giờ.
Chình mun Châu Trúc
Đầm Châu Trúc, còn gọi là đầm Trà Ổ (xã Mỹ Châu, huyện Phù Mỹ) có loại chình mun ngon và bổ nổi tiếng nhất nước ta. Xưa kia, chình mun Châu Trúc đã từng theo ghe bầu vào Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn làm thực phẩm cao cấp cho những người giàu có, nhất là Hoa kiều.
Thưởng thức chình mun có thể là đem nướng để nhậu rượu hay đem nấu chưng cách thuỷ. Nếu đem chình mun hầm chung với một thang thuốc Bắc thì không có gì bổ dưỡng bằng.
Đậu hũ An Nhơn
Nguyên liệu chính để làm đậu hũ (còn gọi là đậu non) là đậu nành. Đậu nành vo sạch, ngâm nước xay thành một dung dịch loãng, rồi lọc qua túi vải, dùng thạch cao (không phải bột thạch cao nặn tượng) đánh tan trong dung dịch để đậu liên kết lại. Muốn đậu được ngon phải pha vào một ít bột gạo. Khi nấu đậu hũ, phải dùng que khuấy đều, liên tục. Khi đậu tới, đem nồi đậu sữa đang nghi ngút khói trút vô vò đặt sẵn trong giỏ nan lót rơm và vải bố, rồi đậy nắp vò thật kín. Chừng non nửa tiếng đồng hồ, đậu sẽ kết tinh và mang đi bán.
Đậu hũ ăn với đường cát hay đường thắng gừng. Trưa, xế mùa hè, ăn đậu hũ thì rất thích, nó vừa mát, bổ, vừa rẻ, vì đậu hũ chính là sữa đậu nành (từ hũ có nghĩa là nát nhừ, nhuyễn).
Mắm cá thu
Tam Quan (huyện Hoài Nhơn) là địa phương sản xuất mắm cá thu nổi tiếng; mắm cá thu Bà Huế, thị trấn Phù Mỹ cũng vang bóng một thời.
Khoảng tháng ba, tháng tư, rộ nhất là tháng7, tháng 8 hàng năm là mùa đánh cá thu. Thịt cá thu có thể chế biến được nhiều món ăn ngon, nhưng cá thu muối mắm cũng rất hấp dẫn, nhất là vào mùa đông động trời, rất ít cá tươi.
Cách chế biến mắm cá thu như sau: Đem cá thu rửa sạch, cho vào thùng gỗ to, cứ một lớp cá, rải một lớp muối hạt theo liều lượng nhất định. Khi cá bắt đầu chín rục, màu thịt cá đỏ tươi, toả mùi thơm, đem cá thu ra khỏi thùng, cắt đầu, lóc hết lớp da ngoài, sau đó lấy con dao thật sắc nạo hết thịt ra từng mảnh. Tiếp đến, dùng dứa (thơm) chín, ớt chín bỏ hột, xắt mỏng đem phơi héo, trộn chung thịt cá thu, bỏ vào cối giã thật nhuyễn để tạo ra một món ăn tuyệt hảo.
Mắm cá thu Tam Quan có mùi vị béo, cay, chua, mặn và ngọt và mùi thơm nồng nên từ lâu đã nổi tiếng khắp các tỉnh Miền Trung và Tây Nguyên.
Mắm cua đồng
Đem cua đồng sống, rửa sạch cho vào cối giã nát, sau đó cho vào một lượng nước, muối vừa phải rồi vắt lấy nước cho vào thẫu cùng với mấy đọt măng vòi, đậy nắp kín để qua đêm. Đoạn cho vào soong nấu, có thêm một ít nước mắm, 3 lát gừng tươi, ớt; đun sôi độ vài phút thì cho thêm bột nêm, gia vị và đem rau thơm hành ngò xắt nhỏ rải lên trên.
Ăn rau chua lẻ, chấm mắm cua đồng với cơm nóng thì rất ngon miệng. Chua lẻ là loại rau mọc dại, lá xanh, nhỏ, bên trên có lông, có vị chua chua, chát chát, giòn giòn, có nhiều ở huyện Tây Sơn nên trong dân gian huyện này có câu: “Rau chua lẻ vẽ mắm cua, Thầy ăn một miếng, bỏ chùa thầy đi“.
Mắm chua
Bất kỳ loại cá gì, từ cá sông đến cá biển, đều có thể làm mắm chua. Mắm chua Bình Định thường làm bằng cá cơm, cá nục, cá ngừ nên ngon nổi tiếng Nhưng mắm chua ngon nhất là mắm chua cá cơm.
Cá cơm có nhiều loại, làm mắm chua không nên dùng cá cơm to mà phải chọn cá cơm nhỏ gọi là cá cơm lài, nhỏ hơn que tăm là tốt nhất. Cá này ruột ít, khi ăn không có vị đắng và mau chín, mau chua.
Mắm chua là mắm ngắn ngày, không nên làm nhiều một lúc, mà làm đến đâu ăn đến đó. Cho nên làm mắm chua, người ta ít dùng thạp lớn để đựng, mà chỉ dùng thẩu, chai, lọ dung tích 2-3 lít.
Cách làm: Chọn cá cơm đúng tiêu chuẩn, rửa sạch bằng nước mắm càng tốt, xáo trộn với muối theo tỷ lệ 3 cá, 1 muối, cho vào thẩu đậy kín. Nếu là mùa hè thì sau 15 ngày, mắm đã chín, đã chua, còn mùa đông thì phải hơn 20 ngày.
Mắm chua ăn với dưa chua, dưa cà muối là sở thích của nhà nông Bình Định.
Mắm ruốc
Mắm ruốc làm bằng những con ruốc, là loài hải sản biển giống như con tôm bạc, nhưng rất nhỏ, bề ngang vài ly, chiều dài chưa đầy 2 phân. Ruốc xuất hiện vào khoảng từ tháng 11 đến tháng 3 âm lịch.
Mắm ruốc là một đặc sản biển rất phổ biến ở các tỉnh từ Nghệ An vào đến Bình Thuận. Cũng như nước mắm, mắm ruốc mỗi nơi có một hương vị khác nhau, ngon hay không ngon là phụ thuộc vào kỹ thuật chế biến, nhưng cũng còn một yếu tố quan trọng là “con nước“. Con nước của vùng nào thì mang hương vị mắm ruốc của vùng ấy. Mắm ruốc Bình Định nổi tiếng không kém các địa phương khác, nhất là mắm ruốc Vũng.
Vũng là địa danh hai làng Vũng Nồm và Vũng Bắc thuộc hai thôn Xương Lý và Hưng Lương, xã Nhơn Lý, thành phố Quy Nhơn. Do kỹ thuật đánh bắt nên con ruốc ở đây sạch, không lẫn lộn tạp chất của biển.
Làm mắm ruốc rất đơn giản và nhanh.Từ khi chế biến đến khi ăn được khoảng 10 ngày. Nhưng muốn giữ được tiếng tăm của đặc sản, khâu then chốt là kỹ thuật chế biến truyền thống. Để có nước mắm ruốc ngon, việc đầu tiên là phải chọn loại ruốc thật tươi và lớn, rồi đem xáo qua một ít muối hạt. Công đoạn này gọi là “muối sư “. Muối sư xong, phải để nguyên như vậy khoảng vài tiếng đồng hồ cho con ruốc ngấm đều muối. Sau đó, đem rải ra nong, nia hoặc trên nền xi măng sạch, phơi heo héo khoảng một tiếng đồng hồ, rồi tuồn vào cối quết cho nhuyễn như quết chả. Khi ruốc đã nhuyễn, cho thêm vào một ít muối trắng mịn, sạch, muối i-ốt càng tốt, theo công thức 3 ruốc, 1 muối (về trọng lượng), rồi trộn đều. Công đoạn cuối cùng là cho vào rổ, bên dưới kê thau, chậu để hứng nước mắm rỉ xuống trong quá trình ruốc chưa chín tiết ra. Dùng tay ép ruốc muối sư, rồi rắc lên trên một lớp muối bột mỏng. Xong, dùng vải hoặc ni lông đậy kín lên trên. Khoảng 9-10 ngày đêm, con ruốc từ màu tím bầm chuyển sang màu đỏ tươi thì mắm đã chua, chín và ăn được.
Khi ăn mắm ruốc, không cần nhiều ớt tỏi, mà chủ yếu là dùng gừng khô, củ riềng giã nhỏ và vắt một ít nước chanh. Muốn có nước mắm ruốc chấm rau thì pha thêm một ít nước cơm nóng.
Mắm ruột cá
Mắm ruột cá cũng là một món ăn đặc trưng của người Bình Định. Ruột cá thường dùng để chế biến mắm ruột là ruột cá ngừ. Trong quá trình chế biến cá ngừ xuất khẩu, người ta dùng một phần ruột cá để chế biến mắm ruột cá.
Cách chế biến khá đơn giản. Đem ruột cá ngừ đã làm sạch, trộn muối với một tỷ lệ nhất định, rồi bỏ vào thẫu hay hủ, đậy kín và phơi nắng, khoảng 7-10 ngày thì ăn được.
Mắm ruột cá chấm với thịt ba chỉ luộc chín hay cà sống, rau lang luộc là món ăn nhân dân lao động Bình Định rất ưa thích.
Nem Chợ Huyện
Loại nem được chế biến tại vùng Chợ Huyện, thuộc xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước.
Nguyên liệu làm nem là thịt heo nạc tươi, lọc hết mỡ, bảo đảm chất lượng. Đem thịt heo cắt theo chiều ngang chừng 3 phân, thái nhỏ, để thật ráo nước, rồi bỏ vào cối đá (mỗi lần độ 2kg thịt) dùng chày quết ít nhất 3 lần cho thật nhuyễn, trộn gia vị rồi đem gói thành từng chiếc. Lá dùng để gói nem phải là lá ổi, trước khi gói phải dùng khăn sạch lau thật kỹ, không được rửa lá ổi, vì như vậy sẽ mất hương vị. Bên ngoài chiếc nem được bọc bằng lá chuối chát tươi để vừa giữ được độ ẩm làm cho nem mau chua, vừa tăng thêm phần thẩm mỹ.
Sản phẩm nem đạt yêu cầu chất lượng là khi bóc các lớp vỏ lá chuối bọc bên ngoài, nem phải khô, có màu đỏ hồng, khi ăn có mùi thơm, giòn.
Nem Chợ Huyện có 2 loại: nem chua và nem nướng. Nem chua làm xong phải để 2-3 ngày mới ăn được. Nem nướng cũng làm như nem chua, nhưng khi làm xong không cần bọc lá, mà bóp lại thành viên dẹp dẹp, khách vào có yêu cầu thì bỏ vào vỉ, nướng trên than hồng cho nem chín toả mùi thơm thì đem ăn. Ăn nem phải có tỏi và chấm với xì dầu.
Do tay nghề cao, mà cũng có thể là do bí truyền, nên nem Chợ Huyện thơm ngon, vừa chua, vừa cay, vừa ngọt, vừa dai, vừa giòn. Ăn nem chợ Huyện, nhắm nháp rượu Bàu Đá thì không gì thú vị bằng.
Trong dân gian có câu: “Ai về Tuy Phước ăn nem, Ghé qua Hưng Thạnh mà xem tháp Chàm”.
Nước chè Huế
Xua kia, người Bình Định không có thói quen dùng chè Tàu và cũng ít dùng chè xanh mà phổ biến là uống chè Huế. Đem chè khô (lá chè xanh đã được phơi thật khô) bỏ vào ấm đất đun thật sôi, thật chín. Dùng một tô lớn đỗ nước lạnh vào lưng chừng bát, đem nước chè đang đun sôi đổ vào cho đầy tô lớn. Nước chè đóng bọt trên mặt, vừa thổi vừa uống một hơi.
Những người lao động nặng nhọc như thợ mộc, thợ nề, thợ rèn, thợ cày v.v. rất thích uống chè Huế vì rất đã khát. Tuy nhiên vì có pha nước lạnh nên không bảo đảm vệ sinh. Nay thói quen uống nước chè Huế không còn.
Nước mắm dừa
Nước mắm dừa có từ khi nào, người Bình Định không thể xác định chính xác, chỉ biết thời kháng chiến chống Pháp, loại nước mắm đặc trưng này được dùng khá phổ biến ở Tam Quan, Hoài Nhơn.
Cách chế biến nước mắm dừa khá đơn giản. Nguyên liệu là dừa già. Dùng khoảng 20 lít nước dừa già, cho vào soong nấu, lửa đỏ riu riu, giữ cho độ sôi đều. Khi trong soong chỉ còn độ 2 lít thì nước mắm dừa ngã sang màu vàng nhạt, cho muối vào vừa đủ mặn, đánh cho muối hoà tan, rồi nhắc soong xuống, để thật nguội mới đựng vào chai hay thẫu.
Nếu lần đầu dùng nước mắm dừa, thực khách dễ lầm tưởng đó là loại nước mắm ngon chế biến từ cá, vì nước mắm có màu vàng mật ong, có vị mặn đậm đà nhưng dễ chịu và thơm ngon.
Nước mắm dừa được những người ăn chay ưa dùng
Nước mắm Gò Bồi
Vùng ven biển Bình Định có nhiều nơi làm nước mắm như Tam Quan (Hoài Nhơn), Đề Gi (Phù Cát), Tân Phụng, Trung Xuân (Phù Mỹ)… nhưng nổi tiếng nhất là nước mắm Gò Bồi.
Gò Bồi thuộc thôn Tùng Giản, xã Phước Hoà, huyện Tuy Phước. Xưa kia, vùng này là biển, sử sách ghi là cửa Cách Thử (Kẻ Thử, Khách Thử), bị phù sa bồi dần thành vạn Gò Bồi. Nước mắm Gò Bồi nổi tiếng nước ta từ hơn hai trăm năm trước.
Xưa kia, người dân vạn Gò Bồi dùng ghe bầu lớn, trọng tải 15-20 tấn vào Phan Rang, Phan Thiết mua “chuợp” về để chế biến nước mắm, vì chuợp bán ở đây giá rẻ hơn chuợp làm tại Bình Định. Chuợp là cá ướp muối nhưng chưa chín, tức là thịt cá chưa biến thành nước. Cá dùng làm nước mắm thường là cá cơm và cá nục. Cá cơm làm nước mắm có mùi thơm, vị ngọt nhưng ít nước. Cá nục làm nước mắm có vị ngọt đậm, nhiều nước, nhưng vị thơm ít.
Cách chế biến nước mắm ở Gò Bồi về cơ bản, giống như các nơi khác. Nhưng nhờ có bí quyết pha chế nên nước mắm Gò Bồi thơm có tiếng, đã từng đoạt giải tại Hội chợ Đấu xảo Huế năm 1940. Muốn thử nước mắm Gò Bồi xem ngon dở, lấy hạt cơm nguội bỏ vào, nếu hạt cơm nổi là nước mắm ngon nhất. Hương mắm Gò Bồi đã đi vào hoài nhớ trong thơ Xuân Diệu: “Khi má anh sinh ra/ Anh đã thở hơi nước mắm ngon của vạn Gò Bồi/ Nên tới già thơ anh còn đậm đà thấm thía…”.
Ruốc tươi Quy Nhơn
Ruốc tươi Quy Nhơn là món ăn dân dã, vừa rẻ, vừa ngon.
Ruốc là đặc sản biển, là loại phiêu sinh vật có hằng hà sa số ở vùng biển Quy Nhơn. Nó giống như con tôm bạc, nhưng rất nhỏ, bề ngang vài ly, dài chưa đến 2 phân; toàn thân màu hồng nhạt mươn mướt. Ruốc xuất hiện vào khoảng tháng 11 đến tháng 3 âm lịch. Ruốc vừa vớt lên tươi roi rói; vốc một nắm thả xuống, nó trôi tuồn tuột, không con nào dính vào nhau. Nếu vốc lên, phải rảy mạnh, các con ruốc mới rời nhau ra thì đó là ruốc đã ươn.
Ruốc tươi đem rửa sạch lấy hết rong rêu và những con cá nhỏ lẫn vào. Đem ruốc thả vào một soong nước đang đun sôi, có nêm một ít muối, gia vị một ít bột ngọt (hay đường cát trắng) và hành ngò, ta có được một tô canh vừa thơm, vừa ngon; nó có vị ngọt rất thanh, không béo, không tanh như cá. Nước canh trong vắt, bàng bạc những con ruốc giữa sắc xanh xanh của ngò hành. Một mùi thơm quyến rũ bốc lên mà không một thứ canh nào khác có thể có được. Không được nêm nước mắm vì như vậy canh ruốc sẽ đục, chua.
Ngoài ra, ruốc tươi còn có thể nấu canh với bầu, bí đao hoặc các loại rau xanh. Cũng có thể dùng ruốc tươi xào với bánh phở, dưa leo, hành lá, hành củ, lấy bánh tráng nướng xúc ăn; hoặc trộm với rau xà lách. Ruốc đánh với trứng đem chiên làm món chả ruốc ăn với rau sống, cuốn bánh tráng. Dùng ruốc tươi thay tôm đúc bánh xèo ăn vừa ngon, vừa rẻ, không chán.
Ruốc tươi chỉ dùng ngay tại chỗ, chứ không chở đi xa được, vì nó dễ ươn. Muốn chở đi xa, phải phơi nắng cho thành ruốc khô hay quết nhuyễn để làm mắm ruốc.
Rượu Bàu Đá
Rượu Bàu Đá sản xuất tại xã Nhơn Lộc, thị xã An Nhơn. (Xem vần L, mục Làng rượu Bàu Đá, trang 431).
Rượu đế
Thời Pháp thuộc, nhân dân ta bị cấm nấu rượu và bị bắt buộc phải mua rượu do các công ty Pháp đầu tư sản xuất. Tuy nhiên, ở nhiều vùng nông thôn, dân ta vẫn lén lút nấu rượu gạo lậu, được gọi là rượu đế có nồng độ cao 50-60 độ cồn.
Rượu đế nấu bằng lò thủ công. Sách “Gia cư tất dụng tập” của Lê Quý Đôn mô tả cách nấu rượu gạo như sau: “Trước hết làm một cái lỗ ở một bên cái bình không, tháp vào một ống tre làm cái mỏ. Ở dưới lại đặt một cái bình không nữa, miệng cái bình này tiếp lấy cái mỏ ống tre trên. Ở ven miệng bình lấy mảnh sành trắng chèn nhét cho kín, hoặc mảnh ngói cũng được. Lấy xơ nhồi với vôi trét kín cho dày, chất vôi bị đốt thì cứng. Lấy độ hai ba cân lửa than nấu ở ven bình khiến rượu trong bình sôi, bốc hơi lên cái bình không, theo cái ống tre, nhỏ giọt vào cái bình không”.
Xưa kia, người dân chỉ dùng rượu trong những ngày giỗ, tết, cưới hỏi. Rượu đế ngon nổi tiếng là ở huyện Phù Mỹ (rượu Mỹ Thọ, Mỹ Chánh), huyện Tây Sơn (rượu Phú Phong), nhưng không thể sánh bằng thương hiệu Rượu Bàu Đá (xã Nhơn Lộc, thị xã An Nhơn).
Yến sào
Bán đảo Phương Mai (Quy Nhơn) có gần 30 hang yến đã được khai thác từ lâu, trong đó hang Cả là nơi tập trung nhiều tổ yến nhất. Yến sào là tổ chim yến, còn gọi là tai yến, được làm bằng nước bọt (nước miếng) chim yến. Sau khi khai thác các tổ chim yến, để có thành phẩm yến sào, phải qua kỹ thuật làm sạch, loại bỏ các tạp chất bám vào tổ chim yến và cắt đi các phần ẩm mốc. Yến thô là loại còn nguyên tổ, chưa được làm sạch; yến thô sạch là loại được sơ chế bằng cách dùng máy hút chân không, hút sạch bụi bặm và lông; yến tinh chế là loại tổ yến đã bị ngâm nước biển hoặc phân chim, phải đem ngâm nước, lọc sạch rối sấy khô, loại này giá trị thấp.
Thành phẩm yến sào được chia làm 3 loại. Loại tốt nhất có yến huyết và yến quan, thứ hai là yến thiên, thứ ba là yến bài hay yến địa. Cả 3 loại đều có giá trị cao, dùng để xuất khẩu, trong đó yến huyết, yến quan được khách hàng ưa chuộng nhất. Yến huyết không phải do máu chim mà do trong thành phẩm có hàm lượng sắt cao.
Yến sào có hàm lượng đạm cao, nhiều axit amin và nguyên tố đa vi lượng, có khả năng phục hồi sức khoẻ nhanh chóng, nhất là sau khi bị ốm dậy; có tác dụng làm sạch phổi và các cơ quan hô hấp, làm giảm các triệu chứng dị ứng, cân bằng các quá trình trao đổi chất trong cơ thể, tăng cường khả năng hoạt động thể lực và phản xạ thần kinh; làm tăng số lượng hồng cầu, huyết sắc tố, tăng khả năng cầm máu; tăng kích thích sinh trưởng cho các tế báo, phục hồi các tế bào bị tổn thương, chống lão hoá, hồi xuân, tăng tuổi thọ, mạnh gân cốt, cường tráng, bổ thận, làm sáng mắt, tóc đen… thích hợp sử dụng cho mọi đối tượng và lứa tuổi. Đối với nữ giới, yến sào được xem là bí quyết để có được làn da trắng đẹp, mịn màng, chống lão hoá và kéo dài tuổi thọ.
Để giữ nguyên tính chất bổ dưỡng của yến sào, người ta thường chế biến yến theo công thức chưng cách thuỷ với đường phèn và nước dừa. Vị thanh ngọt của đường quyện trong sợi yến làm mát mịn nơi đầu lưỡi, kết hợp với vị béo ngậy của nước dừa, mang lại cho thực khách cảm giác thú vị. Cũng có thể thuỷ chế thành rượu yến, tinh yến, nước giải khát yến
Ân Tường
Ân Tường là một xã của huyện Hoài Ân. Nơi đây ghi dấu một móc son chói lọi là chiến thắng Gò Loi, vào tháng 4 năm 1972, tạo thế và đà mạnh mẽ để quân dân Bình Định tiến lên giải phóng hoàn toàn huyện Hoài Ân vào năm 1972, được Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam gửi thư khen ngợi. Hoài Ân là huyện đầu tiên của Liên khu V được hoàn toàn giải phóng trong kháng chiến chống Mỹ (Xem thêm vần D, mục Di tích cách mạng-kháng chiến, tiểu mục Chiến thắng Gò Loi).