Cột cờ và dấu ấn thành Bình Ðịnh
Khi nhà Tây Sơn thất thủ, nhà Nguyễn tiếp quản thành Hoàng Đế - ở TX An Nhơn ngày nay - gần như nguyên vẹn với các cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh. Chuyển công năng sử dụng từ kinh đô của một vương triều trở thành lỵ sở của một tỉnh, vua Gia Long đổi tên là dinh Bình Định, rồi thành trấn Bình Định. Đến năm Gia Long thứ 12 (1814) triều đình cho tháo dỡ cơ sở vật chất tòa thành này chuyển sang xây dựng ở vị trí mới cách nơi cũ khoảng 6 km về phía Nam thuộc 2 thôn Liêm Trực và An Ngãi thuộc phủ An Nhơn với tên gọi là thành Bình Định.
1. Năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng Đế dựng nên triều Nguyễn lấy niên hiệu là Gia Long. Trong quá trình củng cố quyền lực, vua Gia Long yêu cầu các tỉnh thành trong cả nước xây dựng các thành trì cấp tỉnh theo mô hình thu nhỏ của triều đình trung ương.
Bên trong di tích thành Hoàng Đế ngày nay.
Về kiến trúc, thành Bình Định là hình ảnh thu nhỏ của kiến trúc kinh đô Huế theo kiểu Vauban kiểu kiến trúc do kiến trúc sư người Pháp Sébastien Le Prestre de Vauban (1633 - 1707) phát minh. Bên trong thành, có các kiến trúc chính như hành cung để cho nhà vua khi tuần du có ngay chỗ ở phù hợp, nhà chức việc giúp việc cho quan tổng đốc. Thành hình vuông, tường đắp đất có đoạn xây bằng đá ong và mở 4 cửa chính, trước Cánh mạng tháng Tám 1945 tòa thành gần như còn nguyên vẹn cả 4 cửa thành, hành cung và các kiến trúc bên trong.
Năm 1946 thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, chính quyền đã ra lệnh phá dỡ toàn bộ tòa thành này. Do tòa thành quá lớn, không thể phá dỡ trong thời gian ngắn, ở Bình Định người ta chia tường thành từng đoạn rồi chia cho các xã trong toàn tỉnh, bằng hình thức này, chỉ trong thời gian ngắn tòa thành bị phá dỡ hoàn toàn chỉ còn lại “Kỳ Đài” dân gian quen gọi là “Cột Cờ”.
2. Cột cờ nằm ở Cửa Tiền, ban đầu làm bằng gỗ, được đặt trên ụ đất cao ngang với bờ thành và được chôn không có bệ. Mỗi năm, vào dịp tết Nguyên đán, hay ngày Đại Khánh của nhà vua và những ngày có vua ngự cờ sẽ được kéo lên trên kỳ đài.
Năm 1936, cột cờ thành Bình Định được đổi sang làm bằng bê tông cốt thép. Vị trí cột cờ vẫn nguyên chỗ cũ, nhưng đã có chân đế hình vuông xây bằng đá ong. Để ổn định cột cờ, chống dao động mạnh, quanh thân cột có 4 trụ tròn trồng song song với trụ chính, trên bề mặt tấm bê tông thứ nhất người ta đặt 4 trụ nữa, nhưng kích thước nhỏ hơn và trên cùng là tấm bê tông hình vuông đúc liền với cột cờ. Với việc thêm các chi tiết như vậy làm cột cờ có dáng vững chãi mà không bị thô.
Để có thể leo lên treo cờ, quanh thân người ta tạo 28 bậc cấp từ dưới lên. Đỉnh cột cờ hình bát giác, phần chân lớn, càng lên cao càng thu nhỏ. Trên đỉnh tạo hình tròn quả bầu, quanh gắn 4 cây sắt quay 4 hướng, đầu mút uốn cong lên trên, 4 thanh sắt này là nơi buộc 4 dây treo cờ ngũ sắc trang trí vào dịp lễ. Cột cờ cao khoảng 20 m. Hiện nay, cột cờ vẫn còn nguyên vẹn, đế đã được gia cố bằng gạch, nền lát gạch Bát Tràng.
3. Năm 1908, dưới chân cột cờ ngay chính cửa tiền, cửa chính của thành Bình Định đã diễn ra cuộc biểu tình chống thuế do các sĩ phu lãnh đạo. Nhiều tài liệu ghi nhận như sau, ở Bình Định, ngày 12.4.1908, hàng mấy vạn người biểu tình, chia thành từng lớp vây quanh thành, lớp trong gọi là “dân cảm tử”, lớp ngoài gọi là “dân tự cường”. Bọn tri phủ, tri huyện sợ hãi phải trốn về tỉnh. Các lý dịch làm việc đắc lực cho Pháp bị trừng trị. Phong trào lan đến các tỉnh Phú Yên, Thừa Thiên, Hà Tĩnh, Nghệ An và Thanh Hóa.
Từ tháng 4 đến tháng 5.1908, thành Bình Định là nơi đọ sức giữa một bên là quần chúng yêu nước, một bên là súng đạn của đế quốc phong kiến, hàng vạn người của các huyện trong tỉnh theo tiếng gọi của các sĩ phu yêu nước do Hồ Sĩ Tạo đứng đầu lãnh đạo nhân dân kéo về thành Bình Định đấu tranh đòi giảm thuế, miễn sưu. Bọn tay sai trong thành gần như bị cô lập trước sức mạnh đấu tranh của quần chúng nhân dân. Cuộc đấu tranh quyết liệt của quần chúng, buộc thực dân Pháp phải điều động ba phân đội thuộc binh đoàn thuộc địa và bản xứ đóng tại Hà Nội, Hải Phòng và Bình Định tiến hành đàn áp đẫm máu, làm nhiều người chết, hàng trăm người bị bắt đày đi Côn Đảo. TS Hồ Sĩ Tạo, linh hồn của cuộc biểu tình, bị triều đình Huế xử tử.
Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, thành Bình Định chứng kiến cuộc mít tinh long trời chuyển đất trước hàng vạn nhân dân, tuyên bố ủy ban khởi nghĩa ra đời. Và, lần đầu tiên trên cột cờ thành Bình Định quần chúng yêu nước nhìn thấy lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ cách mạng phất phới bay. Cột cờ Bình Định đã chứng kiến chế độ quân chủ sụp đổ, nhà nước mới của nhân dân ra đời. Nó là chứng nhân của một giai đoạn lịch sử quan trọng và đáng được tôn tạo nhiều hơn.
ĐINH BÁ HÒA