B
HOÀI NAM
Ba Na ( Bơi Hnar, Bahnar)
Ba Na là tên một tộc người thiểu số (hiện có khoảng 140.000 người) cư trú ở vùng đông nam Kom Tum, Gia Lai và vùng núi hai tỉnh Phú Yên, Bình Định. Theo số liệu năm 2000, người Ba Na ở Bình Định có khoảng 15.000 người cư trú tại Vĩnh Thạnh, Vân Canh, An Lão và một số làng, xã của huyện Hoài Ân và huyện Tây Sơn; trong đó, đông nhất là ở Vĩnh Thạnh (6.500 người) và Vân Canh (5.300 người).
Người Ba Na ở Vĩnh Thạnh sống tập trung gọi là Ba Na Kriêm, còn người Ba Na ở Vân Canh thì xen cư với người Chăm được gọi là Bơ Hua-Chăm H’ Roi hay Ba Na Bằng Hường. Người Ba Na thường cư trú ở vùng rừng núi cao, độ che phủ của rừng còn nhiều, thảm thực vật phong phú, đa dạng.
Trước đây, người Ba Na sinh sống bằng kinh tế nương rẫy là chủ yếu, bên cạnh đó còn có kinh tế hái lượm, săn bắt, thu nhặt lâm, thổ sản, đan lát, dệt vải, rèn. Hiện tại, người Ba Na đã chuyển sang kinh tế vườn, trồng lúa nước, chăn nuôi, đào ao thả cá, trồng các loại cây công nghiệp giá trị kinh tế cao như tiêu, đào, cà phê, mía, cam, chanh; đồng thời đẩy mạnh trồng và bảo vệ rừng, khai thác lâm sản, mở mang các nghề thủ công truyền thống.
Đơn vị xã hội cơ bản của người Ba Na là plây (làng), do một bộ máy tự quản gồm chủ làng và một số người giúp việc có nhiệm vụ quản lý, điều hành mọi sinh hoạt của cộng đồng dân cư dựa vào luật tục vốn có từ ngàn xưa. Người Ba Na có tính cộng đồng cao trong cư trú, trong sản xuất, trong quan hệ xã hội (đoàn kết, thương yêu đùm bọc, chia sẻ quyền lợi) nên chưa hề có sự phân hoá giai cấp mà chỉ mới có phân hoá giàu nghèo. Xã hội người Ba Na là một xã hội công bằng, thấm đượm tính nhân văn.
Nhà ở của người Ba Na trên đất Bình Định là nhà sàn với hai quy mô nhỏ và lớn tuỳ thuộc vào điều kiện của từng hộ gia đình. Nhà rông là ngôi nhà cộng đồng thể hiện nét riêng tính cách người Ba Na; là nơi hội họp, tiếp khách lạ của làng; nơi làm việc của Hội đồng Già làng; nơi thanh niên chưa vợ và trai góa vợ đến ngủ đêm. Đó còn là nơi tổ chức các lễ hội cộng đồng, nơi đêm đêm bên ánh lửa bập bùng, các già làng kể chuyện về nguồn gốc, truyền thống lịch sử, văn hoá dân tộc, về các sự tích, nhân vật anh hùng cho con cháu nghe. Người Ba Na luôn tự hào, kiêu hãnh về ngôi nhà rông của làng mình, dân tộc mình.
Người Ba Na đối xử với con trai, con gái như nhau. Con trai, con gái đều có quyền thừa kế tài sản. Con cái trong gia đình đều được tự do tìm hiểu, lựa chọn bạn đời, nhưng phải được sự chấp nhận của cha mẹ và sự tán thành của cộng đồng.
Người Ba Na quan niệm mọi vật đều có linh hồn, nên trong tâm linh của họ có vô vàn các vị yàng (thần, ma). Họ cho rằng con người chết đi sẽ biến thành ma tồn tại trong cõi vô hình. Họ phân biệt hai trường hợp chết: chết xấu và chết bình thường. Chết xấu là chết bất đắc kỳ tử (do cọp vồ, cây đè, thai nhi chết trong bụng mẹ...). Chết bình thường là chết do già yếu, ốm đau. Đối với những trường hợp chết xấu, người Ba Na thực hiện nhiều thứ kiêng cử nặng nề và không cho được chôn trong bãi tha ma của dòng họ và cộng đồng. Các trường hợp chết bình thường thì được chôn cất trong nghĩa địa của cộng đồng, của tộc họ. Thi hài người chết được đặt trong một khúc cây đục rỗng ruột (nay thì đã có quan tài), lúc đầu đem chôn tại khu vực mộ táng của làng, sau một thời gian thì tiến hành lễ bỏ mả để linh hồn người chết được về với thế giới tổ tiên. Đối với người Ba Na, lễ bỏ mả được coi như lần cuối cùng tiễn biệt người đã khuất, nên được tổ chức khá lớn, khá chu đáo, mang tính cộng đồng cao.
Cũng giống như nhiều dân tộc ít người khác, người Ba Na có nhiều lễ hội với quy mô gia đình, quy mô cộng đồng như lễ hội cúng cơm mới, lễ vào mùa, lễ cúng máng nước, lễ cây lúa, mẹ lúa... Đặc biệt là lễ Đâm trâu, người Ba Na gọi là Tâm kơ pô hay Sa kơ pô là lễ hội ăn mừng một sự kiện quan trọng đối với cộng đồng nên được tổ chức rất trang trọng và hoành tráng. Nghi lễ tiến hành như sau: Dựng cột đâm trâu trên một đám đất bằng phẳng, quang đãng, rộng rãi. Cột được trang trí rất thẩm mỹ, kỳ công như chạm trổ hình thù các loại động vật, các loại hoa văn cây cối, mặt trời, mặt trăng mang màu sắc dân tộc. Một con trâu khoẻ được buộc chặt vào cột. Khi cử hành lễ cúng tế, một già làng chuyên lo cúng lễ nói ý nghĩa buổi lễ và khấn cầu các vị thần linh đem lại nhiều điều may mắn cho dân làng. Sau đó nam giới gióng lên những hồi chiêng, hồi cồng tạo nên không khí háo hức, rộn ràng. Một ông già, khoẻ mạnh dùng giáo đâm vào cổ con trâu cho đến chết trong tiếng chiêng, trống rền vang, tiếng hò la sôi động. Sau cùng, xẻ thịt con trâu, đầu trâu treo lại trên cột, đem xương, thịt trâu nấu nướng, tổ chức ăn, uống rượu cần, vui chơi, ca hát, nhảy múa kéo dài suốt ba ngày đêm.
Lễ Đâm trâu được coi là ngày lễ lớn của cộng đồng người Ba Na nên mọi người đều ăn mặc những bộ quần áo truyền thống rất đẹp, rất mới và nhảy múa những vũ điệu dân tộc rất đặc sắc.
Kho tàng văn hoá dân gian của người Ba Na ở Bình Định rất phong phú, đa dạng và độc đáo. Đó là các làn điệu dân ca, các câu chuyện dài ca ngợi các nhân vật anh hùng; các điệu múa khiên, múa kiếm, múa trống, múa chiêng, múa que, múa tát nước; các loại nhạc cụ như cồng chiêng, trống lớn pơ rưng, trống nhỏ hê pô, khỏng khuy, dung duk; đờn tơ rưng, đờn gôn, đơn bró, đờn kní, sáo atal, kèn t’nôt, zi diếp; các hình ảnh trang trí ở nhà mồ, nhà rông...Các loại hình nghệ thuật nói trên vừa mộc mạc, vừa đơn sơ, nhưng hết sức tinh tế, sinh động, phóng khoáng như cuộc sống người Ba Na.
Người Ba Na giàu lòng yêu quê hương, đất nước, căm ghét áp bức, bất công và xâm lược.
Trong phong trào khởi nghĩa Tây Sơn, đồng bào Ba Na đã có nhiều đóng góp to lớn. Tù trưởng Ba Na, do nể phục tài Nguyễn Nhạc thuần phục bầy ngựa trời nên đã đem con gái tên là Yã Đố gả cho thủ lĩnh Tây Sơn. Sau khi Nguyễn Nhạc lên ngôi, bà vợ người Ba Na trở thành Thứ phi “Cô Hầu” của Hoàng Đế Thái Đức. Bà có công khai khẩn ruộng hoang ở vủng Mộ Điểu, ấp Cổ Yêm, Tây Sơn Thượng đạo, xây dựng cánh đồng “Cô Hầu“ trù phú rộng 20 mẫu, nằm gần Tú Thuỷ. Đông đảo người Ba Na đã tích cực gia nhập và làm nòng cốt trong hai đội quân thiện chiến là hai quân đoàn do Nguyễn Huệ huấn luyện, chỉ huy và 4 lữ đoàn nữ binh với 100 voi chiến do Bùi Thị Xuân cầm quân. Khi nghĩa quân Tây Sơn bị nhà Nguyễn truy sát, nhiều người thân và thuộc hạ của ba anh em nhà Tây Sơn đã về nương náu tại cánh đồng Cô Hầu, được đồng bào Ba Na tận tình chở che, nuôi dưỡng. Đặc biệt, đồng bào Ba Na ở Vĩnh Sơn đã giữ gìn khẩu đại bác của nhà Tây Sơn (nay được trưng bày tại Bảo tàng Quang Trung) và chăm sóc vườn cam Nguyễn Huệ ở làng Kon Truch (Vĩnh Sơn). Truyền thuyết về vực lồng đèn ở Kon Roi (Vĩnh Hoà), cánh đồng “Cô Hầu“ (Vĩnh Sơn) đã nói lên tấm lòng người Ba Na đối với nghĩa quân Tây Sơn.
Trong phong trào Cần Vương, đồng bào Ba Na hết lòng ủng hộ, giúp đỡ nghĩa quân của Đào Doãn Địch và Mai Xuân Thưởng. Người Ba Na đã cùng người H’Rê tập họp trai tráng trong buôn, làng, thành lập những đội quân thiện chiến chống Pháp mang tên “Sơn hùng”,”Sơn dũng”. Sau khi thành Bình Định bị địch chiếm, Đào Doãn Địch rút quân về vùng rừng núi Phú Phong cố thủ, đồng bào Ba Na và H’Rê đã huy động sức người, sức của xây dựng nhiều mật khu như Lộc Đổng, Hầm Hô, Bắc Trại (ở làng Kà Tè nay thuộc Thuận Ninh), Tổng Dinh (ở huyện Hoài Ân); xây dựng các kho lương Cần Vương tại thượng nguồn sông Côn, gần bản làng Ba Na. Khi nghĩa quân Mai Xuân Thưởng rút về mật khu Linh Đổng thì được đồng bào Ba Na, H’Rê và Chăm tận tình nuôi dưỡng, chở che. Khi gia quyến Mai nguyên suý bị quân Trần Bá Lộc bắt giam tại Phú Phong ngày hôm trước, thì lập tức ngày hôm sau, các toán quân của đồng bào dân tộc thiểu số đột nhập vào trại giặc giải thoát và đưa họ về căn cứ an toàn. Khi mật khu Linh Đổng bị quân giặc bao vây, đồng bào Ba Na và H’Rê đã dẫn đường cho Mai Xuân Thưởng và nghĩa quân vượt núi sang Phú Yên để tiếp tục cuộc chiến đấu. Sau khi Mai Xuân Thưởng bị sát hại, một thuộc hạ của ông tên là Ba Su xây dựng căn cứ chống Pháp ở Canh Liên đã được đồng bào Ba Na và Chăm ở Vân Canh hết lòng giúp đỡ và tích cực tham gia.
Khi thực dân Pháp đánh chiếm núi rừng Bình Định, tiến hành thăm dò các mỏ vàng, kền, cô ban, đồng bào Ba Na đã chống trả quyết liệt; bất hợp tác với giặc, chạy làng lên các vùng núi cao, hiểm trở, cắt đứt mọi mối liên hệ và sự kiểm soát của các đồn lính Pháp.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tinh thần yêu nước, tinh thần cách mạng của đồng bào dân tộc ít người nói chung và đồng bào Ba Na nói riêng được nhân lên gấp bội là nhân tố quyết định mọi thắng lợi trong sản xuất, xây dựng và trong chiến đấu bảo vệ căn cứ địa cách mạng.
Trong giai đoạn tái thiết, xây dựng, phát triển quê hương, người Ba Na đã mạnh dạn tiếp thu đường lối đổi mới của Đảng, kiên quyết từ bỏ tập tục canh tác và phong tục, tập quán lạc hậu, tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, mùa vụ, từng bước xây dựng, phát triển nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường, đi đôi với xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư. Mặt khác, cũng như các dân tộc ít người, đồng bào Ba Na được thụ hưởng nhiều chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước về đầu tư xây dựng điện, đường, chợ, nước sạch, phát triển kinh tế, giáo dục, y tế, về trồng, bảo vệ và quản lý rừng, về xoá đói, giảm nghèo…Nhờ vậy mà đời sống vật chất, văn hoá của người Ba Na ngày càng cải thiện, nâng cao; diện mạo bản làng ngày càng thay đổi.
Bài chòi
Bài chòi là một loại hình nghệ thuật dân gian, bắt nguồn từ hội chơi bài chòi, một hình thức văn hoá giải trí thường được tổ chức vào những ngày đầu năm mới tại các tỉnh miền Trung. Trước năm 1945, hội chơi Bài chòi đã từng phát triển, nhất là vùng Nam Trung Bộ. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) và kháng chiến chống Mỹ (1964 - 1975), nghệ thuật Bài chòi đã được sử dụng khá nhiều và tham gia tích cực vào việc động viên đồng bào, chiến sĩ, ca ngợi những tấm gương đã góp phần vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc và trong thời gian này còn gọi là Bài chòi kháng chiến. Cuối năm 1990, nghệ thuật bài chòi được dần dần phục hồi và đặc biệt kể từ khi Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch có chủ trương phục hồi bài chòi, thì loại hình nghệ thuật này đã nhanh chóng sống dậy và được đông đảo các tầng lớp nhân dân các tỉnh và thành phố Trung Bộ: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Khánh Hoà tổ chức hội chơi Bài chòi vào các dịp lễ, Tết, đầu năm mới. Hiện nay, Bình Định được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch giao chủ trì đăng cai tổ chức các sự kiện, lập hồ sơ để trình UNESCO xem xét công nhận Nghệ thuật bài chòi dân gian miền Trung là di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại.
Tại Bình Định, ngoài các câu lạc bộ bài chòi cổ ở các địa phương, còn có Đoàn Ca kịch Bài chòi Bình Định (Xem vần N, mục Nghệ thuật Ca kịch Bài chòi)
Bãi Nhạn
Bãi Nhạn (sử triều Nguyễn gọi là Nhạn Châu) là một doi đất nhọn, bằng phẳng, nằm phía đông thành phố Quy Nhơn, nay thuộc địa bàn của đồn biên phòng cửa khẩu 324 và bãi cá khu vực I phường Hải Cảng. Bãi Nhạn và núi Tam Toà nằm đối diện là di tích lịch sử thời Tây Sơn. (Xem vần D, mục Di tích thời Tây Sơn, tiểu mục Bãi Nhạn-Tam Toà).
Bãi tắm Hoàng hậu
Là bãi đá trứng xanh tròn, trông rất đẹp, nằm sát biển, dưới chân Gành Ráng và lầu Bảo Đại (phường Gành Ráng, Quy Nhơn). Gọi là Bãi tắm Hoàng hậu vì xưa kia, mỗi lần về Quy Nhơn nghỉ mát tại lầu vua Bảo Đại, tương truyền Nam Phương Hoàng hậu thường tắm tại đây.
Bàng Châu
Bàng Châu (hay Bằng Châu) thuộc phường Đập Đá, thị xã An Nhơn, xưa kia nổi tiếng về nghề đúc đồng, nay có thêm nghề đúc gang, đúc nhôm (Xem vần L, mục Làng nghề Đúc đồng Bàng Châu)
Bảo tàng Quang Trung
Bảo tàng Quang Trung được khởi công xây dựng vào năm 1978, chính thức đi vào hoạt động năm 1979, nhân kỷ niệm 190 năm Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa (1789-1979).
Bảo tàng được xây dựng tại Kiên Mỹ - quê hương ba anh em nhà Tây Sơn, (trước đây thuộc xã Bình Thành, nay thuộc khối I, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn).
Bảo tàng được xây dựng vừa hiện đại, vừa cổ kính với hệ thống mái, cột, hoa văn mang dáng dấp kiến trúc đình, chùa Việt Nam thế kỷ XVIII. Nhà tứ giác theo lối chồng diềm hai mái, lợp ngói âm dương, mái cong, góc mái trang trí hình vân mây; có tam cấp mở về 4 hướng đông, tây, nam, bắc và hành lang dẫn theo vòng tứ giác ngôi nhà.
Bảo tàng lưu giữ, bảo tồn và trưng bày, giới thiệu những hiện vật, những tư liệu lịch sử liên quan đến cuộc khởi nghĩa của ba anh em nhà Tây Sơn và vị anh hùng áo vải cờ đào Nguyễn Huệ - Quang Trung.
Bảo tàng trưng bày theo hệ thống niên biểu về thời gian với tiến trình lịch sử phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn và vai trò của Hoàng đế Quang Trung-Nguyễn Huệ.
Bảo tàng được chia làm 9 phòng trưng bày:
- Phòng tiền sảnh mang ý tưởng tụ nghĩa và chiến thắng, trung tâm là nhóm tượng 3 thủ lĩnh nhà Tây Sơn: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ;
- Phòng thứ nhất giới thiệu đất nước Việt Nam trước khởi nghĩa Tây Sơn; những đặc điểm về kinh tế, văn hoá, xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII liên quan và tác động đến khởi nghĩa Tây Sơn;
- Phòng thứ 2: Quê hương và thưở thiếu thời của các Thủ lĩnh Tây Sơn;
- Phòng thứ 3: Chuẩn bị khởi nghĩa trên vùng đất Tây Nguyên-Tây Sơn Thượng đạo (nay thuộc An Khê, Gia Lai);
- Phòng thứ 4: Bước phát triển của phong trào Tây Sơn từ miền núi về đồng bằng, mở rộng địa bàn hoạt động ra 2 phủ Quy Nhơn và Quảng Ngãi;
- Phòng thứ 5: Chống phong kiến Lê-Trịnh-Nguyễn, thống nhất đất nước sau trên 200 năm bị các thế lực phong kiến chia cắt;
- Phòng thứ 6: Chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc: Đàng Trong, đánh tan 5 vạn quân Xiêm, Đàng Ngoài, đánh bại 29 vạn quân Mãn Thanh xâm lược;
- Phòng thứ 7: Công cuộc xây dựng đất nước của nhà Tây Sơn;
- Phòng thứ 8: Phòng lưu niệm du khách với Bảo tàng và Bảo tàng với du khách.
Nổi bật trước Bảo tàng Quang Trung là Tượng đài Hoàng đế Quang Trung. Tượng đài cao 10,04 mét do tác giả Lê Đình Bảo, Công ty Mỹ thuật Hà Nội thể hiện. Tượng đài được đúc bằng đồng, nặng 18 tấn, hoàn thành ngày 16.1.2006.
Tượng đài thể hiện hình ảnh một vị vua áo vải, với tài trí thao lược về quân sự, một vị anh hùng bách chiến, bách thắng của dân tộc Việt Nam. Khuôn mặt có thần với đôi mắt rất sáng, nét mặt đoan chính, quyết đoán, nhưng cũng thật mở lòng để lắng nghe bá tánh. Một tay cầm đốc kiếm, tay kia mở ra phía trước trông rất đĩnh đạc, khoan thai; bàn tay vỗ về yên dân của vị vua áo vải trọng dụng nhân tài, thu phục nhân tâm như Hoàng đế Quang Trung đã ban bố trong Chiếu Lập học “Dựng nước lấy việc học làm đầu, cầu trị lấy nhân tài làm gốc “
Bảo tàng Tổng hợp tỉnh
Bảo tàng Tổng hợp tỉnh ra đời năm 1980, là nơi nghiên cứu, sưu tầm, trưng bày, lưu trữ, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể của địa phương.
Những ngày đầu mới thành lập, số lượng hiện vật của Bảo tàng tỉnh tất ít ỏi. Sau hơn 30 năm sưu tầm, Bảo tàng đã có những bộ sưu tập hiện vật quý, hiếm. Hiện Bảo tàng tỉnh trưng bày và lưu giữ trên 23.900 hiện vật, gồm các hiện vật về khảo cổ học văn hoá Đông Sơn, văn hoá Sa Huỳnh, văn hoá Chămpa; hiện vật văn hoá triều Nguyễn; hiện vật lịch sử-văn hoá các dân tộc thiểu số tại Bình Định; hiện vật các ngành nghề truyền thống; hiện vật văn hoá dân gian; hiện vật thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ xâm lược; hiện vật tìm được qua các đợt khai quật khảo cổ học. Trong đó, chiếm số lượng lớn và có giá trị nhất là các hiện vật văn hoá Chămpa như đồ gốm đất nung, đồ đá, kim loại.
Bến đò
Xưa kia, trên vùng đất Bình Định có nhiều bến đò ngang, trong đó có nhiều bến đò ghi dấu ấn lịch sử.
Bến đò An Thái
Bến An Thái nằm trên khúc sông Côn rộng gần một cây số và sâu nhất. Bên này sông là làng An Thái, bên kia sông là làng An Vinh - đều là những làng võ nổi tiếng ở Bình Định.
Làng An Thái còn nổi tiếng về đặc sản bún Song Thằn và bãi cát ven sông Côn gần bến đò An Thái, xưa kia là nơi diễn ra lễ hội Xô cỗ-Đổ giàn mang tinh thần thượng võ cao.
Tại bến đò An Thái, một cây cầu bê tông vĩnh cửu, dài 1.800 mét, 33 dầm, 10 trụ đã được đưa vào sử dụng trong năm 2009 nhằm đảm bảo thông đường phía tây tỉnh vào năm 2010.
Bến Gỗ
Bế Gỗ xưa kia nằm ở tây bắc thành Hoàng Đế, là nơi tập kết gỗ súc từ đầu nguồn chuyển xuống để từ đó theo đường bộ đi khắp nơi trong tỉnh, trong nước. Bến Gỗ không chỉ nổi tiếng về gỗ mà còn khắc ghi những dấu ấn lịch sử cuộc khởi nghĩa Tây Sơn.
Từ Bến Gỗ nằm ở tây bắc thành Hoàng Đế, có thể ngược dòng sông Côn lên vùng cao và xuôi xuống sông Đại An ra cửa Thị Nại. Giữa thành và ngoài thành Hoàng Đế là những gò, núi rất thuận lợi cho việc dùng binh. Phía nam có gò Vân Sơn, gò Tập là những điểm cao bảo vệ phía nam thành Ngoại; sau gò Tập có núi Long Cốt được coi là “tiền án” của thành Hoàng Đế, là nơi từng diễn ra những trận đánh dữ dội giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn Ánh.
Bến Thị Lựa
Bến Thị Lựa là nơi nhánh sông Bắc Phái chảy xuống Thạch Yển gặp nơi đầu sông La Vỹ tạo thành ngả ba sông. Tương truyền, nhánh sông La Vỹ do vua Thái Đức-Nguyễn Nhạc huy động nhân dân đào, lấy đất đắp luỹ bao quanh mặt tây bắc thành Hoàng Đế. Từ bến Thị Lựa, nhân dân các xã phía tây huyện Tuy Viễn xưa (nay là An Nhơn) có thể xuôi về Đập Đá và các xã đông An Nhơn, Tuy Phước.
Bến Trường Thi
Bến Trường Thi nằm trên một phân lưu quan trọng của sông Côn chảy qua trước mặt Cửa Tiền thành Bình Định có tên là sông Cửa Tiền. Đoạn sông này rộng khoảng vài trăm mét. Bên kia sông là xã Nhơn Hoà, bên này sông là xã Nhơn Hưng đều thuộc huyện An Nhơn. Hai bên bờ sông là hai hàng tre gai chạy dài tít tắp. Phía sau hàng tre, xóm làng trù phú, ruộng vườn xanh mướt.
Sông Cửa Tiền vào mùa khô chỉ là một bãi cát trắng xoá, dòng sông thu hẹp lại thành con lạch rộng chừng chục bước chân, sâu chưa quá đầu gối. Vào mùa mưa, nước từ thượng nguồn đổ về, cuồn cuộn phù sa đục ngầu. Khách muốn sang sông phải luỵ đò. Và bến đò Trường Thi nằm ở phía Cửa Tiền, chỉ hình thành trong mùa nước lớn, tồn tại từ tháng 9 đến tháng 12 âm lịch.
Gọi là bến Trường Thi vì bến này nằm gần Trường Thi Bình Định dưới triều Nguyễn và đã đi vào thi ca với bài thơ nổi tiếng Bến My Lăng của thi sĩ Yến Lan.
Bến Trường Thi nay được thay thế bằng một cây cầu bê tông vĩnh cửu
Bến Trường Trầu
Bến Trường Trầu là một bến buôn bán trầu lớn bên bờ sông Côn, xưa thuộc xóm Trầu, thôn Kiên Mỹ, ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn, nay là xóm Hưng Hoà (đội 7, khối 1), thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn.
Sông Côn khởi nguồn từ miền Tây Sơn Thượng đạo, qua Tây Sơn Hạ đạo rồi xuống đồng bằng, là mạch giao thông đường thuỷ nối cao nguyên với đồng bằng, làm cho vùng đất Kiên Mỹ, Kiên Thành sớm trở nên sầm uất, bỡi nơi đây có bến Trường Trầu là một đầu mối mua bán, trao đổi hàng hoá giữa miền xuôi và miền ngược.
Bến Trường Trầu là một trong những di tích phong trào nông dân Tây Sơn, nhưng nay chỉ là một bãi bồi vắng lặng, nép mình dưới chân cầu Kiên Mỹ (Xem vần D, mục Di tích thời Tây Sơn, tiểu mục Bến Trường Trầu, trang 232)
Bình An
Bình An là một xã nằm về phía đông nam huyện Tây Sơn, nơi xảy ra vụ quân Nam Triều Tiên tàn sát đẫm máu 1.004 thường dân vô tội (Xem vần D, mục Di tích cách mạng và kháng chiến, tiểu mục Di tích Vụ thảm sát Bình An)
Bình Đê
Bình Đê xưa gọi là Thạch Tân là con đèo nằm trên quốc lộ IA làm ranh giới giữa hai tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi
Bình Định
Địa danh Bình Định xuất hiện năm 1799 sau khi Nguyễn Ánh chiếm được phủ thành Quy Nhơn, đổi phủ Quy Nhơn thành dinh Bình Định, đổi thành Hoàng Đế thành thành Bình Định.
Quá trình thành lập tỉnh Bình Định như sau:
Tháng 7.1471, vua Lê Thánh Tông cho lập phủ Hoài Nhơn gồm 3 huyện Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn (nằm trên địa bàn tỉnh Bình Định ngày nay), thuộc trấn Quảng Nam. Năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng đổi tên phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy Nhơn. Năm 1651, chúa Nguyễn Phúc Tần đổi thành phủ Quy Ninh. Năm 1702, chúa Nguyễn Phúc Khoát lấy lại tên phủ Quy Nhơn. Năm 1799 Nguyễn Ánh đổi tên phủ Quy Nhơn thành dinh Bình Định, năm 1808, vua Gia Long đổi thành trấn Bình Định. Năm 1815, trấn Bình Định bao gồm cả một phần đất đai của tỉnh Gia Lai và tỉnh Kon Tum và được chia làm 2 phủ là Hoài Nhơn (có 3 huỵện Bồng Sơn, Phù Mỹ, Phù Cát) và An Nhơn ( có 2 huyện Tuy Phước, Tuy Viễn). Năm 1832, vua Minh Mạng đổi trấn thành tỉnh Bình Định, là một trong 29 tỉnh và phủ Thừa Thiên trong toàn quốc. Năm 1890, thực dân Pháp sáp nhập tỉnh Phú Yên thành lập tỉnh Bình Phú, tỉnh lỵ đặt tại Quy Nhơn, đến năm 1899 thì tách tỉnh Phú Yên và lập lại tỉnh Bình Định. Năm 1909, Pháp bãi bỏ tỉnh Plây Cu De (Plâycu Derr được thành lập năm 1905), lấy một nửa đất đai của tỉnh này sáp nhập vào tỉnh Bình Định. Năm 1913, Pháp lại cho sáp nhập tỉnh Phú Yên vào tỉnh Bình Định thành tỉnh Bình Phú, đến năm 1921, thì Pháp cho lập lại tỉnh Bình Định gồm 3 phủ Hoài Nhơn, An Nhơn, Tuy Phước và 4 huyện Hoài Ân, Phù Mỹ, Phù Cát, Bình Khê tồn tại đến năm 1945. Đầu năm 1976, tỉnh Bình Định hợp nhất với tỉnh Quảng Ngãi thành tỉnh Nghĩa Bình. Tháng 7/1989, tỉnh Bình Định được tái lập, tồn tại cho đến ngày nay.
Tỉnh Bình Định nằm ở duyên hải Nam Trung Bộ, phía bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi, phía nam giáp tỉnh Phú Yên, phía tây giáp tỉnh Gia Lai và Kon Tum, phía đông giáp biển Đông với bờ biển dài 134 km. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh: 6.143 km2. Diện tích vùng lãnh hải: 36.000 km2 (gấp 6 lần diện tích tự nhiên của tỉnh)
Nằm ở vị trí trung tâm miền Trung và cả nước, có quốc lộ IA và đường sắt xuyên Việt chạy ngang qua suốt chiều dài của tỉnh; có đường 19 lên Tây Nguyên, thông với Hạ Lào; có cảng Quy Nhơn, lại nằm trên trục hành lang Đông Tây (Quy Nhơn-Kon Tum-Aptôpơ-Pắc Xế-Ubon Rat Cha Tha dài 770 km) nên tỉnh Bình Định có vai trò chiến lược hết sức quan trọng trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, cũng như trong khu vực tiểu vùng sông Mê Kông.
Tỉnh Bình Định, thời phủ Hoài Nhơn là miền đất lành quy tụ, hun đúc, nuôi dưỡng, phát triển tài năng, đức độ của nhiều bậc hiền tài như Đào Duy Từ, nhà chiến lược “bậc thầy thiên hạ” bị chế độ Lê - Trịnh ruồng bỏ; Trương Văn Hiến, thầy dạy 3 lãnh tụ Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ và nhiều danh tướng nhà Tây Sơn.
Bình Định thời phủ Quy Nhơn là nơi phát tích nhiều cuộc nông dân khởi nghĩa, trong đó quy mô rộng lớn hơn cả, thắng lợi vang dội hơn cả là phong trào khởi nghĩa của nông dân Tây Sơn, đánh bại quân chúa Nguyễn và 5 vạn quân can thiệp Xiêm ở phương Nam, đập tan quân chúa Trịnh và 29 vạn quân xâm lược Thanh ở phương Bắc, xoá bỏ nạn cát cứ, nội chiến kéo dài trên 2 thế kỷ, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Đó là niềm tự hào của nhân dân Bình Định.
Thời Pháp thuộc, Bình Định nổi tiếng với phong trào Cần Vương do Đào Doãn Địch, Mai Xuân Thưởng lãnh đạo và phong trào Chống thuế 1908 thu hút hơn 3 vạn đồng bào tham gia, có cả các vị quan lại Triều đình và các nhà khoa bảng.
Thời kháng chiến chống Pháp, với những thành tựu tăng gia sản xuất tự cấp, tự túc, huy động tối đa nhân, tài, vật lực phục vụ tiền tuyến, Bình Định là tấm gương sáng về tinh thần yêu nước, tự cường, tự lực canh sinh, tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng. Thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vô cùng gian khổ, ác liệt, đầy hy sinh, tổn thất, Bình Định sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng ”quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, anh dũng, kiên cường, “một tấc không đi, một ly không rời”, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng Miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Thời tái thiết, đổi mới, kế thừa và phát triển những truyền thống tốt đẹp đã được hun đúc, tôi rèn qua chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước, nhân dân Bình Định đã tạo dựng thêm những phẩm chất mới về bản lĩnh và trí tuệ. Đó là sự năng động, sáng tạo trong việc vận dụng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp với thực tiễn địa phương, tạo nên những thành quả cơ bản, đáng tự hào; sự nhạy bén, thích nghi với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, với xu thế mở cửa, hội nhập toàn cầu, nhưng luôn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc văn hoá dân tộc.
Với khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa, nhiệt độ trung bình hàng năm 26-28 độ C, lượng mưa trung bình 1.700-1.800mm, với bờ biển dài 134 km, nhiều đầm hồ, sông suối; với 117.000 ha nông nghiệp, có 71.000 ha đất phù sa; 202.900 ha đất rừng, có 154.000 ha rừng tự nhiên và gần 200.000 ha đất rừng chưa sử dụng; với một tập đoàn thuỷ, hải sản có giá trị kinh tế cao và một tập đoàn cây lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp phong phú và với nguồn lao động trẻ dưới 30 tuổi chiếm 62,8% dân số toàn tỉnh (1.485.000), Bình Định có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế nông-lâm-ngư nghiệp toàn diện gắn với công nghiệp chế biến.
Tuy không giàu tài nguyên khoáng sản, nhưng tỉnh Bình Định cũng có nhiều khoáng sản giá trị kinh tế cao như đá xây dựng, đặc biệt là đá granite, quặng titan, suối khoáng, cao lanh, cát trắng...; nổi tiếng về nhiều làng nghề truyền thống… là những tiềm năng phát triển công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp.
Tỉnh Bình Định là địa phương mà người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã theo cha (Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Huy, Tri huyện Bình Khê) vào sống và học tập hơn một năm (khoảng từ tháng 5.1909 đến tháng 8.1910). Con người, vùng đất Binh Định “địa linh, nhân kiệt” mang đậm những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp và đặc trưng của dân tộc, đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức, ý chí, quyết tâm và tinh thần cứu nước, cứu dân của Nguyễn Tất Thành trên lộ trình bôn ba hải ngoại tìm đường giải phóng dân tộc. Đó là niềm tự hào của nhân dân Bình Định.
Nhân dân có tinh thần thượng võ cao, Bình Định là điểm đồng quy tinh hoa các dòng võ cổ truyền từ Miền Bắc, từ Trung Hoa, giao thoa, hoà hợp với các dòng võ địa phương, tạo thành nền võ học Tây Sơn-Bình Định, vừa đậm đà bản sắc võ cổ truyền dân tộc, vừa mang đặc trưng võ bản địa, phát triển tuyệt đỉnh và toàn diện cả về võ đạo, võ lý, võ thuật, võ lễ, võ y và võ nhạc. Bình Định là quê hương của nghệ thuật hát bội (hát bộ, hát tuồng), nổi tiếng với nhà soạn tuồng Đào Duy Từ và danh nhân văn hoá Đào Tấn được tôn vinh là “hậu tổ” nghề thuật hát tuồng. Bình Định còn là nơi nảy mầm, phát triển những tài năng thơ mới như Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Yến Lan... Bình Định là địa phương có nhiều thành cổ, tháp cổ, điêu khắc cổ, kiến trúc cổ, đồ gốm cổ thời vương Quốc Chămpa nổi tiếng cổ kính, uy nghi, phong phú, đa dạng về chủng loại, tinh xảo về kỹ thuật; có nhiều di tích lịch sử-văn hoá, nhiều danh lam, thắng cảnh. Với những lợi thế nêu trên, Bình Định có nhiều tiềm năng phát triển du lịch văn hoá-lịch sử.
Bình Định còn là tên gọi một phường thuộc thị xã An Nhơn.
Bình Khê
Thời vương quốc Chămpa, chưa có địa danh Bình Khê, mà vùng đất huyện Bình Khê lập năm 1888 còn nằm trong huyện Tượng Lâm là địa bàn cư trú của người Chăm. Từ khi nhà Lê lập phủ Hoài Nhơn, sau đổi thành phủ Quy Nhơn cho đến khi lập tỉnh Bình Định, vùng đất huyện Bình Khê thuộc huyện Tuy Viễn.
Địa danh Bình Khê xuất hiện tháng 9 năm 1888, dưới Triều Nguyễn, với vai trò là một đơn vị hành chính cấp huyện, tồn tại cho đến khi cuộc kháng chiến chống Mỹ két thúc thắng lợi (1975). Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, huyện Bình Khê được đổi thành huyện Tây Sơn (Xem vần T, mục Tây Sơn).
Bồng Sơn
Địa danh Bồng Sơn xuất hiện từ khi lập phủ Hoài Nhơn (1471) sau đổi thành phủ Quy Nhơn (1602). Huyện Bồng Sơn là một trong 3 huyện của phủ Hoài Nhơn (Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn). Huyện Bồng Sơn nằm ở phía bắc phủ Hoài Nhơn, giáp phủ Quảng Ngãi. Từ thời chúa Nguyễn đến thời Tây Sơn và dưới triều Gia Long nhà Nguyễn, huyện Bồng Sơn không có sự thay đổi địa danh, địa giới. Năm 1932, khi vua Minh Mạng cho đổi trấn Bình Định thành tỉnh Bình Định, chia huyện Phù Ly thành 2 huyện Phù Mỹ và Phù Cát, chia huyện Tuy Viễn thành 2 huyện Tuy Phước và Tuy Viễn, huyện Bồng Sơn vẫn được giữ nguyên. Đến năm 1885, huyện Bồng Sơn có 4 tổng, 169 thôn. Bốn tổng gồm: tổng Định Sơn (14 thôn), tổng Thượng (49 thôn), tổng Trung (62 thôn), tổng Hạ (44 thôn). Năm 1890 (Canh Đần), triều Nguyễn cho đặt Hoài Ân châu ở thượng du huyện Bồng Sơn. Năm 1899 (Kỷ Hợi), vua Thành Thái ra dụ cắt toàn tổng Vạn Đức, 9 thôn của tổng Trung Yên, 5 thôn của tổng Kim Sơn (trước gọi là Ô Lim, Ô Kim) và 14 thôn của tổng An Sơn thuộc huyện Bồng Sơn để lập huyện Hoài Ân. Năm 1907, Bồng Sơn không còn là một đơn vị hành chánh cấp huyện mà chuyển thành một Đại lý hành chánh thuộc phủ Hoài Nhơn. Từ đây tỉnh Bình Định được chia thành 3 phủ Hoài Nhơn, An Nhơn, Tuy Phước, 4 huyện Hoài Ân, Phù Mỹ, Phù Cát, Bình Khê và thị xã Quy Nhơn đồng cấp, không còn cơ chế thống hạt hay kiêm lý như trước. Bồng Sơn là thị trấn-phủ ly Hoài Nhơn. Các đơn vị hành chánh nói trên tồn tại đến khi Cách mạng tháng 8.1945 thành công.
Trong kháng chiến chống Pháp, Bồng Sơn là một thị trấn buôn bán sầm uất, là trung tâm giao lưu văn hoá, thương mại của khu V và tỉnh Bình Định, được coi như Thủ phủ kháng chiến của khu V.
Thời Mỹ-ngụy (1955-1975), huyện Hoài Nhơn được chia thành hai quận Hoài Nhơn (26 xã) và Tam Quan (6 xã). Bồng Sơn, với diện tích 16,8 km2, số dân gần 37.200 người, là một xã, là trung tâm thương mại, dịch vụ của quận Hoài Nhớn.
Sau ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất nước nhà (1975), Bồng Sơn là một trong 12 xã thuộc huyện Hoài Nhơn. Tháng 2.1986, xã Bồng Sơn được chia thành 2 đơn vị hành chánh là xã Hoài Tiến (sau đổi thành xã Bồng Sơn Tây) và thị trấn Bồng Sơn. Thị trấn Bồng Sơn có diện tích tự nhiên 517,8 ha, dân số gần 9.000 người; phía đông giáp xã Hoài Xuân, phía tây giáp xã Hoài Tiến, phía nam giáp xã Hoài Đức và phía bắc giáp xã Hoài Tân. Năm 1994, sát nhập xã Bồng Sơn Tây vào thị trấn Bồng Sơn. Thị trấn Bồng Sơn được chính thức công nhận có diện tích tự nhiên trên 1.600 ha, dân số trên 18.800 người. Năm 2010, thị trấn Bồng Sơn được Chính phủ công nhận đô thị loại IV.
Bờ biển
Bờ biển tỉnh Bình Định dài 134 km, chạy từ Kim Bồng đến chân núi Cù Mông. Cảnh quan bờ biển luôn thay đổi hình dạng ngay trong một phạm vi không gian hẹp, tạo nhiều cảnh sắc rất hấp dẫn khách du lịch. Nhiều đoạn bờ biển lồi lên do gờ núi nhô ra tạo thành mũi, ghềnh khúc khuỷ, hiểm trở như vùng đông Phù Cát, Gành Ráng (TP Quy Nhơn); nhiều đoạn bờ biển bằng phẳng lõm vào thành cửa, vũng như vũng Tô, vũng Nồm, vũng Bấc, vũng San Hô... Bên cạnh những bãi đá rộng là những vịnh kín làm bãi tắm rất tốt.
Từ bắc vào nam có các cửa biển:
Cửa Kim Bồng nằm dưới chân dãy Thạch Tân (Bình Đê) ăn thông với của Tam Quan. Từ Kim Bồng trở vào, bờ biển thấp và toàn cát bằng phẳng. Xưa kia cửa Kim Bồng là hải tấn (Kim Bồng hải tấn), có đặt chức Tấn Thủ thừa biện làm nhiệm vụ canh phòng và thu thuế thuyền bè chở hàng hoá vào ra.
Cửa Tam Quan nay được xây dựng thành một cảng cá sầm uất. Theo quy hoạch đến năm 2020, Cảng Tam Quan sẽ được xây dựng với 3 bến tàu có tổng chiều dài 330 mét, công suất gần 1 triệu tấn hàng hoá/năm thông qua cảng và có khả năng tiếp nhận tàu trọng tải 3 vạn tấn
Cửa An Dũ. Lại Giang hình thành từ hợp lưu của hai con sông Kim Sơn và An Lão, chảy qua các xã huyện Hoài Nhơn rồi đổ ra biển Đông qua cửa An Dũ. Cửa An Dũ nằm cách cửa Kim Bồng 7 cây số về phía nam, xưa kia cũng là một hải tấn. Trước cửa có một dải cát dài khoảng 7 cây số chạy từ Ca Công, Thạnh Xuân (Hoài Xuân) vào đến Diêu Quan (Hoài Mỹ), tục gọi là “Con rồng Đồng Đỏ”. Cửa biển khi mở, khi lấp thất thường, không thuận tiện cho thuyền bè vào ra.
Cửa An Dũ là nơi xảy ra nhiều trận chiến ác liệt giữa nghĩa quân Tây Sơn và quân chúa Nguyễn; giữa nghĩa quân Cần Vương và quân xâm lược Pháp. Thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, cửa An Dũ là nơi lưu thông, quá cảnh những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu và súng đạn lấy được của địch, từ các vùng địch tạm chiếm đưa vào vùng ta cung cấp cho các lực lượng cách mạng.
Cửa Hà Ra nằm phía nam Phú Thứ (Phù Mỹ), cách cửa An Dũ không xa, xưa kia cũng là một hải tấn. Cửa Hà Ra ăn thông với đầm Châu Trúc nhờ có một con suối dài độ 4 cây số. Ngày xưa cửa biển rộng, ít bị bồi lấp, ghe thuyền có thể vào ra đầm Trà Ổ, nay thì chỉ có thể lưu thông vào mùa mưa lụt lớn. Ngoài khơi, trước mặt cửa Hà Ra có một hòn đảo nhỏ, hình giống như một con rùa bò, tục gọi là Hòn Quy, còn gọi là Hòn Khô.
Từ Hà Ra đến Vĩnh Lợi khoảng gần 30 cây số, trừ hòn Vỉ Rồng và hòn Lang ở Tân Phụng, còn lại toàn là cát trắng viền biển xanh, những động cát mịn màng, bằng phẳng, mênh mông, người xưa gọi là Bạch Sa Động. Giữa động cát, tại Xuân Phương, có một mũi đá nhô ra, tục gọi là Gành Mét, tên chữ là Độc Ky (gành một). Từ Gành Mét đến hòn Lang có hai vũng nước ôm lấy bờ biển: một vũng ở phía bắc từ Gành Mét đến hòn Vỉ Rồng gọi là vũng Mới; một vũng ở phía nam từ hòn Vỉ Rồng đến hòn Lang gọi là vũng Bầu, xưa kia gọi vùng đất hai vũng này là Phường Mới. Qua khỏi vũng Bầu thì đến cửa Đề Gi.
Thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cửa Hà Ra là nơi cập bến của các con tàu không số làm nhiệm vụ tiếp tế vũ khí, đạn dược cho chiến trường khu V.
Cửa Đề Gi. Cũng như cửa Kim Bồng, cửa Đề Gi lòng hẹp và không sâu nên tàu lớn không vào được. Cửa Đề Gi có hòn Lang án ngữ như một tấm bình phong chắn gió từ hướng bắc, tạo thành một nơi trú đậu an toàn cho thuyền bè. Nơi đây đã từng có một thời phồn thịnh, buôn bán sầm uất mà dấu tích còn lại là chợ Gành nằm ở phía tây với những khu dân cư tập trung, mang dáng dấp một đô thị cổ. Trước cửa Đề Gi chừng hai hải lý có mấy hòn đảo nhỏ nằm chơi vơi giữa biển trông giống như những con trâu đang lặn ngụp, nên tục gọi là Hòn Trâu.
Theo quy hoạch đến năm 2020, cửa Đề Gi sẽ được xây dung với 5 bến tàu có tổng chiều dài 1.000 mét, có thể tiếp nhận tàu trọng tải 2 vạn tấn, công suất đạt 3 triệu tấn/năm hàng hoá thông qua cảng; xây dựng khu neo đậu tàu thuyền rộng 20 ha cho 800 tàu đánh cá trú bão.
Từ Đề Gi vào đến Cách Thử, khoảng 20 cây số, bờ biển thấp và bằng phẳng, nhưng đến vùng Chánh Oai, Thanh Hy và vùng Tân Lý, do núi Bà nhô ra biển nên có nhiều ghềnh đá gồ ghề. Giữa những ghềnh đá có những vũng nhỏ, ghe thuyền không vào neo đậu được.
Cửa Đề Gi là nơi xảy ra nhiều trận chiến ác liệt giữa nghĩa quân Tây Sơn với quân Nguyễn Ánh.
Cửa Cách Thử còn gọi là Kẻ Thử, xưa kia cũng là một hải tấn, thông với đầm Thị Nại ở phía nam. Khi cửa Cách Thử chưa bị lấp thì dãy Triều Châu là một vùng hải đảo. Sau khi cửa Cách Thử bị bồi lấp thì Triều Châu trở thành một bán đảo chạy từ Cách Thử đến Phương Mai dài khoảng 20 cây số. Bờ biển chạy dưới chân bán đảo, khi thì cát trắng rộng mênh mông, khi thì gành cao, mũi nhọn.
Từ Cách Thử đến Hưng Lương (Nhơn Lý) dài độ 7-8 cây số, bờ biển thấp và có nhiều cát vụn từ mé biển cho đến chân núi. Vùng cát nầy gọi là Trường Châu hay Trường Chữ, tức là Bãi Dài. Từ Hưng Lương trở vào, thỉnh thoảng có đôi ngọn núi đá mọc sát mé biển làm cho bờ biển trở nên gập ghềnh, khó đi. Từ Dốc Ngựa đến Phương Mai, bờ biển toàn là ghềnh đá. thỉnh thoảng mới có vài doi cát viền chân núi.
Từ bắc vào nam, dọc theo bán đảo Triều Châu có nhiều vũng như vũng Tô, vũng Nồm, vũng Bấc, vũng San Hô. Trên bờ vũng San Hô có một làng lấy tên là làng San Hô chuyên khai thác san hô bán cho thợ hầm vôi.
Ngoài khơi, rải rác có mấy hòn đảo như Hòn Cỏ, Hòn Cân nằm trước mặt núi Hưng Lương cách chừng một hải lý. Tại vũng San Hô có Hòn Khô làm bình phong che gió cho xóm làng vùng nầy.
Qua khỏi vũng San Hô thì đến Mũi Mác, còn gọi là Mũi Yến là một mũi đá nhọn hoắt chỉa thẳng vào nam. Mũi Mác là điểm cuối của dãy Triều Châu. Từ mũi Mác chạy lên hướng tây, qua Hòn Mai đến Gành Hổ (Hổ Ky) thì bờ biển sát chân núi, sóng vỗ gành cao, bãi cát chỉ lộ ra khi triều xuống. Hổ Ky trở mũi vào đất liền thành phố Quy Nhơn. Phía nam Hổ Ky là núi Cổ Rùa, tên chữ là Quy Cảnh chuỷ. Cổ Rùa và Hổ Ky là hai cánh cửa của đầm Thị Nại.
Cửa Thị Nại xưa gọi là cửa Giã (theo tiếng Việt cổ, giã là biển, nghề giã là nghề đánh cá biển), nay gọi là Cảng Quy Nhơn. Đây là thương cảng quan trọng của tỉnh Bình Định. Cửa được tạo bỡi mũi Rùa bên bờ biển phía tây và gành Hổ thuộc dãy núi Phương Mai bên bờ đông, trong thế “ôthuỷkhẩu giao nha”, theo quan niệm phong thuỷ thì đó là một hình thế đẹp.
Xưa kia, cửa Thị Nại là một hải tấn có xóm Tấn từng là nơi đóng lỵ sở của quan Tấn Thủ. Nơi mũi Rùa có chiếc cầu gọi là Cầu Tấn.
Bờ biển Quy Nhơn cát mịn dễ đi, dài khoảng 7 cây số, chạy từ Cầu Tấn đến Gành Ráng giống hình một lưỡi liềm to, mũi là Cầu Tấn, cán là Gành Ráng. Tại Gành Ráng có bãi tắm Hoàng hậu và lầu Bảo Đại (xây năm 1927, nay không còn). Gành Ráng tên chữ là Nhạn Châu, do núi chạy xuống sát biển, nên bờ biển nổi cao, gò đống ngổn ngang, gành hang hiểm trở.
Cửa Thị Nại từ triều Lý đến khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử trọng đại, hùng tráng có, bi thương có.
Việc giải toả những ngôi nhà che chắn bờ biển Quy Nhơn và xây dựng con đường Xuân Diệu chạy từ Cầu Tấn đến Gành Ráng có nhiều công viên, cây xanh điểm xuyết, càng làm cho bờ biển Quy Nhơn với nước biển trong xanh, bãi cát trắng mịn vốn đã đẹp và nên thơ càng thêm kỳ thú, hấp dẫn hơn.
Gành Ráng ở phía tây nam và Phương Mai ở đông bắc là hai cánh cửa ngoài che biển Quy Nhơn.
Qua khỏi Gành Ráng đến Quy Hoà, núi lùi về phía dãy Cù Mông nên bờ biển hạ thấp xuống, bãi cát chạy dài độ vào ba cây số thì đến chân núi Cù Mông nằm sát biển. Đến đây là điểm cuối cùng của tỉnh Bình Định.
Nổi trên biển đông, nằm cách Cù Mông chừng hai mươi hải lý, có một hòn cù lao, tên chữ là Thanh Châu Đủ, tục gọi là Cù lao Xanh, nay là xã Nhơn Châu của thành phố Quy Nhơn. Trên đỉnh cù lao có xây tháp hải đăng (cao 19m) trên đỉnh núi cao 119 mét.
Trong mục Bình Định của bài này, tác giả có viết: Nguyễn Tất Thành là Hồ Chí Minh thì ai cũng biết. Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Huy thì đây là lần đầu tui đọc thấy. Thường trong các sách báo mà tui từng đọc, cũng như tài liệu thời phổ thông đã học thì chỉ có tên Nguyễn Sinh Sắc. Vậy Nguyễn Sinh Huy có phải là Nguyễn Sinh Sắc không? Nếu đúng, vậy sao không dùng tên phổ thông hoặc chú thích(gạch ngang) cho người đọc dễ hiểu.