Hoài Nam
C
Cách mạng tháng Tám ở Bình Định
Ngày 8.8.1945, Nhật đầu hàng Liên Xô và quân Đồng Minh. Ngày13.8.1945, tại Hội nghị Tân Trào (Hà Tuyên), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc gởi thư kêu gọi quốc dân đồng bào: ”Giờ quyết định vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng lên đem sức ta mà giải phóng cho ta. Chúng ta không được chậm trễ”. Tối 13.8.1945, Uỷ ban Vận động Việt Minh tỉnh họp khẩn cấp tại ga Quy Nhơn, chủ trương phát động quần chúng vùng lên giành chính quyền trước khi quân Đồng Minh kéo đến địa phương; quyết định thành lập Uỷ ban Khởi nghĩa do đồng chí Võ Xán lãnh đạo và lập đội Tự vệ Cứu quốc tập trung. Ngày 18.8.1945, Uỷ ban Vận động Cứu quốc tỉnh họp tại An Sơn (Hoài Nhơn) quyết định thành lập Uỷ ban Khởi nghĩa do đồng chí Trần Quang Khanh làm Trưởng ban, sau đó ra “Chỉ thị sắt” nhắc các địa phương không được tự động mà phải chờ lệnh của trên.
Tại Quy Nhơn, từ ngày 15.8.1945, không khí công khai tuyên truyền, cổ động quần chúng nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa dấy lên mạnh mẽ ở khắp nơi trong thị xã. Tối 21.8, tại ga Quy Nhơn, Uỷ ban Khởi nghĩa của Uỷ ban Vận động Việt Minh tỉnh họp quyết định kế hoạch khởi nghĩa chiếm tỉnh lỵ.
Sáng 23.8.1945, cả Quy Nhơn sục sôi khí thế cách mạng. Hàng ngàn công nhân, lao động và các tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ, cùng ngư dân xóm Tấn, thôn Hải Giang và nông dân Xuân Quan, Phú Vinh, Phú Hoà, Hưng Thạnh, cờ giong, trống thúc, rầm rập kéo về sân vận động Quy Nhơn. Công nhân hãng dệt Delignon (Bình Khê) và các ga Bình Định, Diêu Trì, Mục Thịnh (Vân Canh), cùng thanh niên, học sinh nhiều làng của Tuy Phước, thanh niên và nhân dân thị trấn Bình Định, công nhân và viên chức trại Canh nông và Túc mễ An Nhơn… mang theo cờ đỏ sao vàng và vũ khí thô sơ nô nức kéo về Quy Nhơn.
Tại Sân vận động Quy Nhơn, trước hơn một vạn người, thay mặt Uỷ ban Khởi nghĩa, đồng chí Võ Xán hiệu triệu quần chúng nhất tề vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Sau đó, quần chúng chia thành hai đoàn, có các đội Tự vệ Cứu quốc đi đầu: Đoàn quân thứ nhất ào ạt tiến chiếm Đốc bộ đường (dinh Tổng đốc) và toà Đốc lý, rồi họp điểm tại trại Bảo an tỉnh. Tại Đốc bộ đường, Tổng đốc Phạm Phú Tiết xin nộp ngay ấn tín, thanh kiếm lệnh cùng các hồ sơ, tài sản và các công sở cho đại diện Uỷ ban Khởi nghĩa. Uỷ ban Khởi nghĩa liền điện ra lệnh các Tri phủ, Tri huyện và Chỉ huy các đồn Bảo an trong tỉnh phải giao ngay chính quyền cho Việt Minh; Đoàn quân thứ hai, sau khi tiến chiếm toà Đốc lý, thì kéo đến đồn Bảo an, viên đồn trưởng ngoan ngoãn cúi đầu nộp vũ khí, giao đồn trại và kho tàng cho Việt Minh. Sau khi chiếm xong toàn bộ các công sở của chính quyền bù nhìn tỉnh Bình Định (trừ chi nhánh ngân hàng Đông Dương do quân Nhật chiếm giữ), hai đoàn quân cách mạng tập trung tại khu đất rộng nằm đối diện Đốc bộ đường (nay là khuôn viên bệnh viện thành phố Quy Nhơn) tham gia cuộc mít ting chào mừng việc thành lập Uỷ ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Nguyễn Huệ (tỉnh Bình Định) do đồng chí Võ Xán làm Chủ tịch.
Huyện Bình Khê, sáng 24.8.1945, hơn 3.000 công nhân hãng dệt Delignon và quần chúng nhân dân các làng thuộc các tổng Phú Phong, Vĩnh Thạnh, có đội Tự vệ Cứu quốc dẫn đầu rầm rộ kéo về huyện đường, buộc Tri huyện Bình Khê phải giao ngay chính quyền cho Việt Minh. Tại cuộc mít ting được tổ chức tại sân vận động Trinh Tường (xã Bình Tường), Uỷ ban Nhân dân Cách mạng lâm thời huyện Bình Khê, do ông Phạm Lương làm Chủ tịch làm lễ tuyên thệ trước nhân dân.
Tại Phù Mỹ, ngày 23.8.1945, tại thị trấn Phù Mỹ, đại diện Việt Minh nam Phù Mỹ (của Uỷ ban Vận động Việt Minh) và Việt Minh bắc Phù Mỹ(của Uỷ ban Vận động Cứu quốc) họp bàn kế hoạch phối hợp lực lượng để cướp chính quyền phủ, nhưng không đạt kết quả. Chiều 24.8.1945, gần 3.000 quần chúng các làng thuộc các tổng Trung Thành, Trung Bình có trang bị vũ khí thô sơ, kéo về tập trung tại sân vận động phủ nghe Uỷ ban Vận động Việt Minh công bố lệnh khởi nghĩa, sau đó tiến hành tuần hành vũ trang kéo về phủ đường, buộc Tri phủ phải giao chính quyền cho đại diện Việt Minh nam Phù Mỹ. Uỷ ban Nhân dân Cách mạng lâm thời huyện Phù Mỹ được thành lập do đồng chí Nguyễn Đăng Đệ làm Chủ tịch.
Huyện Hoài Ân, ngày 22.8.1945, hơn 2.000 nhân dân các tổng Quy Hoá, Phú Hữu và Kim Sơn, có Tự vệ Sắt đi đầu, biểu tình thị uy từ Kim Sơn (Ân Nghĩa) đến Truông Mây (Vĩnh Hoá, Ân Đức). Ngày 24.8.1945, Uỷ ban Khởi nghĩa huyện Hoài Ân đột nhập huyện đường buộc Tri huyện giao ấn tín, sổ sách cho Việt Minh và tịch thu một số vũ khí trang bị cho đội Tự vệ tập trung của huyện. Ngày 26/8, tại An Thường (Ân Thạnh) hơn 3.000 đồng bào các tổng Quy Hoá, Phú Hữu, Kim Sơn, Hoài Đức và Lại Khánh họp mít tinh chào mừng việc thành lập Uỷ ban Nhân dân Cách mạng lâm thời huyện Hoài Ân do đồng chí Huỳnh Đăng Thơ làm Chủ tịch.
Phủ Tuy Phước, chiều 22.8, Uỷ ban Vận động Việt Minh huyện huy động hàng nghìn quần chúng các làng xung quanh phủ lỵ, thị trấn Bình Định (huyện An Nhơn), ga Diêu Trì, do Tự vệ Cứu quốc làm nòng cốt, biểu tình thị uy, chiếm phủ lỵ Tuy Phước, bắt viên Tri huyện. Từ 27 đến 31.8, sau khi nhân dân hai làng Vân Hội, Diêu Trì (xã Phước Long) đứng lên giành chính quyền về tay cách mạng, đồng bào các làng thuộc các tổng Dương An, An Định, Nhơn Ân, Kỳ Sơn, Thiều Quang lần lượt nổi dậy tịch thu đồng triện, sổ sách của bọn tổng lý, thành lập chính quyền cách mạng. Chiều 3.9.1945, hàng nghìn quần chúng tham gia cuộc mít ting chào mừng việc thành lập Uỷ ban Nhân dân Cách mạng lâm thời huyện Tuy Phước do đồng chí Đoàn Như Khương làm Chủ tịch.
Phủ An Nhơn, chiều 22 và ngày 23.6, Việt Minh thị trấn Bình Định và trại Canh nông huy động lực lượng quần chúng tham gia cuộc biểu tình chiếm huyện lỵ Tuy Phước và tỉnh lỵ Quy Nhơn. Ngày 25.8.1945, Việt Minh huyện huy động lực lượng cách mạng tấn công, chiếm lấy phủ đường An Nhơn, buộc Tri phủ phải giao ấn tín, vũ khí. Cũng trong ngày 25.8, nhân dân các làng Đại An, Đại Bình (Nhơn Mỹ), Vân Sơn (Nhơn Hậu) nổi dậy giành chính quyền ở cơ sở. Từ ngày 26 đến 29.8, nhân dân các tổng Mỹ Đức, An Ngãi, Nhơn Nghĩa Thượng và Hạ, Háo Đức Thượng và Hạ đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền, hoàn thành việc giành chính quyền làng, xã trong toàn huyện. Ngày 3.9.1945, hơn 4.000 đồng bào 6 tổng tập trung tại sân vận động thị trấn Bình Định dự cuộc mít ting thành lập Uỷ ban Nhân dân Cách mạng lâm thời phủ An Nhơn do đồng chí Nguyễn Thành Mẫn làm Chủ tịch.
Phủ Hoài Nhơn, ngày 19.8.1945, tại cấm An Sơn (Hoài Châu), Uỷ ban Vận động Cứu quốc huyện (tức Việt Minh phủ Ái) lập Uỷ ban Khởi nghĩa. Từ 21 đến 24.8, cả huyện Hoài Nhơn sôi sục khí thế cách mạng; chính quyền bù nhìn các làng thuộc các tổng Vân Sơn, Tài Lương, An Sơn, Trung Yên đều tan rã, bọn tổng lý tìm cán bộ Việt Minh để giao đồng triện. Sáng 26.8.1945, theo lệnh của Uỷ ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Nguyễn Huệ điện từ Quy Nhơn ra, Tri phủ Hoài Nhơn giao chính quyền cho Việt Minh, nhưng đại diện Uỷ ban Khởi nghĩa huyện không tiếp nhận, mà huy động hơn 4.000 nhân dân, có đội Tự vệ Sắt tập trung của huyện dẫn đầu, tổ chức biểu tình tuần hành thị uy đi từ An Sơn xuống Tài Lương. Ngày 27.8, Uỷ ban Nhân dân Cách mạng lâm thời thị trấn Tam Quan và 12 làng xung quanh được thành lập. Ngày 29.8.1945, Uỷ ban Khởi nghĩa Hoài Nhơn huy động hơn 5.000 quần chúng tham gia cuộc mít ting thành lập Uỷ ban Nhân dân Cách mạng lâm thời phủ Hoài Nhơn do đồng chí Trịnh Hồng Kỳ làm Chủ tịch.
Huyện Phù Cát, từ 22 đến 24.8, cán bộ Việt Minh huyện tổ chức nhiều cuộc tuyên truyền xung phong, biểu tình thị uy, tịch thu đồng triện, sổ sách của bọn tổng lý các làng thuộc tổng Thạch Bàn. Ngày 25.8, tại An Hành (nay thuộc thị trấn Ngô Mây), hai tổ chức Việt Minh (thuộc Uỷ ban Vận động Cứu quốc và Uỷ ban Vận động Việt Minh) họp thống nhất lực lượng, thành lập Uỷ ban Khởi nghĩa. Ngày 31.8.1945, Uỷ ban Khởi nghĩa huyện Phù Cát huy động hơn 1.000 quần chúng, có đội Tự vệ Sắt tập trung dẫn đầu, tiến vào huyện đường, buộc Tri huyện giao chính quyền cho Việt Minh. Ngày 3.9.1945, tại Sân vận động An Hành, hơn 3.000 đồng bào 6 tổng trong toàn huyện họp mít ting chào mừng việc thành lập Uỷ ban Nhân dân Cách mạng lâm thời huyện Phù Cát do đồng chí Trương Chánh Hân làm Chủ tịch.
Chăm
Chăm là tên một dân tộc ít người cư trú tại huyện Vân Canh có khoảng gần 4.500 người. Dân tộc Chăm ở Vân Canh thuộc nhóm Chăm H’Roi (giống như người Chăm ở Phú Yên). Họ sống xen cư với người Ba Na và người Kinh.
Kinh tế truyền thống của người Chăm xưa là nghề trồng lúa nước, nghề thủ công, nghề buôn bán. Các hoạt động kinh tế hiện nay của người Chăm H’Roi là khai phá ruộng khô (đất nà thổ), trỉa lúa cạn, làm nương rẫy, kinh tế vườn, làm ruộng nước, phát triển chăn nuôi, săn bắn, đánh bắt cá, hái lượm, thu nhặt lâm thổ sản, trong đó kinh tế nương rẫy giữ vai trò trọng yếu. Dệt vải là nghề truyền thống cũng được khôi phục và ngày càng phát triển.
Đơn vị xã hội cơ bản của người Chăm Vân Canh là làng (plây). Trước đây làng của người Chăm chỉ bao gồm những người cùng dòng máu (một họ, một huyết thống), nay tính chất truyền thống được thay thế bằng tính chất láng giềng, cận cư, đồng tộc. Đứng đầu mỗi làng là Chủ làng (Hu plây). Chủ làng được quyền chọn một số người già tham gia Hội đồng Già làng. Chủ làng điều hành mọi hoạt động của cộng đồng làng, giải quyết những xích mích, mâu thuẫn trong nội bộ cộng đồng dân cư, thay mặt cộng đồng để bảo vệ quyền lợi của làng mình khi xảy ra tranh chấp với làng khác. Chủ làng người Chăm, ngoài yếu tố kinh nghiệm, đức độ còn có yếu tố tài sản (kinh tế) nên Chủ làng thường là người giàu có thuộc tầng lớp trên.
Trước đây, người Chăm H’Roi đã đạt trình độ phát triển cao, nên hiện nay làng của họ là một hợp thể cân đối về cấu trúc, hài hoà trong việc bố trí, sắp xếp nhà cửa, vườn tược, đường sá. Làng được chia thành nhiều pla nhỏ (nhóm gia đình) cách nhau bởi những hàng rào, dòng suối, con đường. Chạy dọc theo chiều dài của làng là một trục đường lớn chia ra thành nhiều trục đường nhỏ, nối các gia đình lại với nhau. Hai bên đường có trồng điểm xuyết những cây gạo, cây bông gòn.
Nhà ở của người Chăm H’Roi là nhà sàn truyền thống và nhà trệt lợp tranh, tôn hay ngói. Nhà sàn truyền thống của người Chăm Vân Canh thường nhỏ nhưng cân đối, thoáng mát, trổ cửa lên xuống ở đầu hồi. Bước lên cầu thang là một khoảng sân hẹp, lộ thiên như một hành lang vừa là sân phơi, vừa là một cách bài trí làm tăng thêm vẻ duyên dáng của ngôi nhà, tạo sự hoà đồng giữa con người với thiên nhiên, tạo nên một cảm giác mát mẻ, nhẹ nhàng. Trong nhà, có đủ tiện nghi phục vụ đời sống vật chất và đời sống tâm linh (bàn thờ, trống, chiêng, đàn...)
Người Chăm dù đàn ông hay đàn bà đều mặc kiểu áo giống áo bà ba của người Kinh. Những ngày lễ hội, đàn ông thường mặc bộ y phục màu trắng, đầu đội khăn và khoác chiếc áo ghon. Áo ghon xẻ hai nách, không có cúc, chỉ có dây buộc trước bụng, trên hai vai áo có ráp miếng vải đỏ, sau lưng và mặt trước của áo có trang trí một đường màu đen; từ đường chỉ nầy, có những dây cườm xanh, đỏ, trắng với những đồng xu lủng lẳng treo ngang gấu áo. Váy của phụ nữ Chăm là những tấm vải không khâu thành ống, gồm hai bộ phận: dây thắt lưng và tấm váy. Đằng sau tấm váy có gắn miếng vải “phờ” dài 40cm, rộng 20cm có trang trí hoa văn.
Trong xã hội người Chăm ở Bình Định, sự phân cách giữa người giàu, người đủ ăn và người nghèo nhìn chung chưa rõ ràng. Hình thức sở hữu, nhất là sở hữu đất đai còn ở trình độ thấp, đơn giản, gồm có sở hữu cá nhân và sở hữu cộng đồng. Người Chăm rất tôn trọng sở hữu cá nhân, như khi người nào muốn khai phá, sử dụng một đám đất nào đó, nhất thiết phải được sự đồng ý của chủ cũ.
Cũng như người Ba Na, người H’Rê, tính cộng đồng và tính nhân văn của người Chăm là những đặc tính nổi bật trong quan hệ xã hội. Người Chăm có những tập tục khá đặc biệt, mang đậm tình người như kết bạn giũa những cá nhân, những gia đình có cảnh ngộ giống nhau, kết nghĩa anh em giữa hai người cùng tên. Quan hệ dòng họ của người Chăm cũng khá đặc biệt. Những người cùng chung một dòng họ luôn thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ, cưu mang lẫn nhau, nhất là khi gặp khó khăn, hoạn nạn. Đứng đầu một dòng họ người Chăm là Trưởng họ (Ha phi xai). Đó là người cao tuổi nhất, người anh cả của dòng họ, thay mặt dòng họ quan hệ với các dòng họ khác và là thành viên của Hội đồng Già làng. Tiếng nói của Trưởng họ là tiếng nói chung của cả dòng họ. Gia đình nào trong dòng họ, khi có tang ma, tế lễ, cưới xin đều phải hỏi ý kiến của Trưởng họ. Bàn thờ dòng họ được đặt tại nhà Trưởng họ. Những ngày tết, ngày lễ, ngày giỗ, các thành viên trong dòng họ đều tập trung về nhà Trưởng họ. Trước đây, các dòng họ của người Chăm thường cư trú biệt lập, khoanh vùng, nhưng nay đã xáo trộn, xen cư.
Về quan hệ hôn nhân, bố mẹ người Chăm rất tôn trọng sự lựa chọn và ủng hộ tình yêu đôi trẻ. Tuy nhiên, đồng bào Chăm lên án và không chấp nhận những trường hợp không lành mạnh trước khi cưới; xử phạt rất nặng các trường hợp ngoại tình, loạn luân, có thể bị đuổi ra khỏi cộng đồng. Hôn nhân một vợ, một chồng mang tính phổ biến trong xã hội người Chăm rất được đồng bào khuyến khích, ủng hộ.
Trong gia đình Chăm, người cha là chủ; con cái có thể mang họ cha hoặc họ mẹ. Con gái có thể chủ động cưới xin hay bắt rể, có quyền thừa kế hay có tài sản riêng. Tâm lý chung của người Chăm là thích con đùm, cháu đống
Khác với người Chăm ở các tỉnh phía nam và TP Hồ Chí Minh, người Chăm Vân Canh không theo đạo Hồi hay đạo Bà La Môn. Cũng như người Ba Na, người H’Rê, người Chăm Bình Định quan niệm vạn vật hữu linh, họ cho rằng vũ trụ có ba tầng, ba thế giới: tầng trời là thế giới của thần tiên; tầng đất là nơi ở của con người và linh hồn đang sống; tầng dưới đất là nơi ở của các hồn ma.
Trong sinh hoạt cộng đồng và gia đình, người Chăm có khá nhiều lễ hội và phong tục khác nhau. Đó là lễ hội Chọn đất phát rẫy, lễ Cầu mưa, lễ Săn thú rừng, lễ Bắt cá, lễ Cúng yàng nước, lễ Cúng cơm mới, đặc sắc nhất là lễ Đâm trâu (Prong cớp reo). Ngoài ra, còn có những phong tục liên quan đến đời người như lễ An thai, lễ Đặt tên cho con, lễ Cúng hồn vía trong mỗi con người, lễ Cầu an, lễ Kết nghĩa anh em; các phong tục liên quan đến cưới xin, tang ma, xây nhà mới.
Văn hóa nghệ thuật, văn nghệ dân gian của người Chăm rất đa dạng và độc đáo. Kho tàng chuyện kể của người Chăm rất phong phú với các loại trường ca, dân ca, các làn điệu hát ru (ơ mai ơ), hát trữ tình (H’ ri cô ning, H’ ri ling rang) dành cho đôi lứa, hát tiễn biệt. Các điệu múa trong các dịp hội làng (mơ chơ rung cô), trong lễ Đâm trâu, trong đám cưới rất độc đáo, uyển chuyển. Nhạc cụ của người Chăm Vân Canh rất đa dạng, phong phú gồm đàn bầu 1 dây, đàn bầu 2 dây, đàn bầu 12 dây, đàn ớp, đàn cơ nhi, đàn kéo lơ tin, kèn môi. Các hoạ tiết, hoa văn trên các trang phục được thể hiện theo lối dích dắc với các hình tượng mặt trời, chim muôn, cây cỏ rất ấn tượng.
Chợ búa
Thập niên đầu thế kỷ XX, trên địa bàn tỉnh Bình Định có gần 50 chợ lớn nhỏ, lớn nhất là chợ Quy Nhơn và chợ Bình Định.
Chợ An Thái
Chợ An Thái nằm bên dòng sông Côn, xã Nhơn Phúc, huyện An Nhơn. Xưa kia, chợ An Thái là nơi tập trung khá đông người Hoa sinh sống. Các mặt hàng bán tại chợ, chủ yếu là thuốc Bắc, bún Song Thằn và những mặt hàng thủ công sản xuất từ các vùng nông thôn lân cận như đổ đồng, vải, lụa, giấy, đường, mật v.v.
Chợ Bình Định
Chợ Bình Định nằm tại thị trấn Bình Định, huyện An Nhơn, xưa kia là chợ Gò Chàm.
Chợ Dinh
Chợ Dinh (nay thuộc huyện Tuy Phước) xưa kia còn gọi là chợ Bình Thạnh là một trong những chợ ra đời sớm nhất ở Bình Đình, cùng thời với chợ Thị Nại (về sau thành chợ Quy Nhơn). Nhân dân gọi chợ Dinh là để tưởng nhớ tấm lòng hào hiệp của một cung nhân dưới triều vua Gia Long, người họ Ngô ở làng Bình Thạnh; bà không có con, khi về hưu được triều đình cấp đất, bà hiến xây chợ.
Chợ Đập Đá
Chợ Đập Đá (An Nhơn) ở bờ sông Thạch Yển, xưa kia là nơi mua bán, trao đổi nguyên liệu và sản phẩm dệt Phương Danh nổi tiếng như lụa, lãnh, lương xuyến, đũi; các sản phẩm rèn Phương Danh như cuốc, mai, dao, rựa, kéo thợ may, dụng cụ nghề mộc; các sản phẩm đúc đồng Bàng Châu như mâm, thau, nồi, đồ thanh khí và thờ cúng; các sản phẩm gốm của làng Nam Tân; các mặt hàng thuốc Bắc của người Hoa.
Chợ Gò Chàm
Chợ Gò Chàm (thị trấn Bình Định) bên sông Tân An (còn gọi là sông Trường Thi) xưa kia là tâm điểm của các chợ vệ tinh bao quanh gồm chợ Mai, chợ Chiều, chợ Bò. Chợ Mai (nhóm buổi sáng) bán lương thực, thực phẩm; chợ Chiều (nhóm buổi chiều) nổi danh về hàng cá biển; chợ Bò chuyên bán trâu bò. Các sản phẩm thủ công của các nghề rèn, đúc đồng, dệt, thêu, chạm bạc... được bày bán ở chợ Gò Chàm rất nhiều. Nổi tiếng có đồ rèn Tân Hội; đồ đồng Kim Châu; đồ thêu với câu đối, trướng, liễn, cờ, quần áo, trang phục cho các gánh hát bội; thuốc Bắc cũng là mặt hàng chính yếu được bày bán tại chợ.
Chợ Gò Găng
Chợ Gò Găng (thuộc xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn) nằm bên bờ sông La Vỹ với bến gỗ tấp nập người mua bán lâm thổ sản, có bán các sản phẩm nổi tiếng như nón ngựa Gò Găng, lục lạc ngựa bằng đồng, khăn xếp (khăn đóng ngày xưa), đồ hàng mã, đồ chạm khảm bằng bạc, và cũng có cả thuốc Bắc của Hoa thương.
Chợ Nước Mặn
Chợ Nước Mặn nằm bên sông Cầu Ngói thuộc xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, xưa kia là nơi người mua, kẻ bán tấp nập như một cảng thị sầm uất, được xem là trung tâm thương mại lâu đời nhất của tỉnh Bình Định.
Chợ Phú Đa
“Ai về Đập Đá quê cha, Gò Găng quê mẹ, Phú Đa quê chàng”.
Phú Đa là một chợ quê nổi tiếng sầm uất thời kháng chiến chống Pháp.
Chợ Phú Đa nằm ở xóm Miễu Tây (còn gọi là Xóm Chợ) thuộc làng Tân Dân xưa có 4 xóm Miễu Đông, Miễu Tây, Miễu Nam, Miễu Bắc (lấy tên miếu thờ thổ công đặt tên xóm). Làng Tân Dan thuộc tổng Háo Đức Thượng, nay thuộc xã Nhơn An nằm trong vùng “gạo trắng, nước trong” của huyện An Nhơn.
Chợ Phú Đa thưở xưa, lều quán xây bằng tranh tre, bày bán heo gà, bầu bí, gạo nếp, toàn là nhưng sản vật của làng Tân Dân cùng mấy làng quê lân cận; cũng có vài sạp hàng xén. Chợ ngó ra con đường làng, cũng là bờ một nhánh sông Côn chảy từ Cầu Chàm xuống. Ba mặt khác của chợ là ba dãy nhà tranh, nhà ngói xen nhau, có mấy nhà mở cửa tiệm, vài tiệm bán cao đơn hoàn tán, trà Tàu, vài tiệm rượu. Trường làng ở trong xóm chợ. Rượu gạo Tân Dân thời ấy ngon nổi tiếng như rượu Bàu Đá ở Nhơn Lộc, còn rượu cơm nếp Tân Dân cũng nổi tiếng không kém.
Hồi 9 năm kháng chiến chống Pháp, chợ Phú Đa rất sầm uất. Người Quy Nhơn theo đường đất Gò Bồi, Nước Mặn, theo đường sông Háo Lễ, Gò Chàm quang gánh tản cư lên chợ Phú Đa, làng Tân Dân. Họ mở tiệm vàng Nguyệt Bạch, tiệm dép lốp cao su Quy Thành; mở rộng giao thương bằng đường bộ, đường sông, nối với chợ Nước Mặn, chợ Gò Bồi. Người Quy Nhơn cùng người địa phương lập gánh hát bội Thông Cừu, lập đội bóng đá, xây sân vận động Tân Long, góp phần làm cho làng Tân Dân sôi nổi.
Chợ Quy Nhơn
Chợ lớn Quy Nhơn ngày nay là chợ Thị Nại xưa kia, còn gọi là chợ Chánh Thành ra đời vào cuối thế kỷ XIX trong quá trình đô thị hoá và phát triển kinh tế hàng hoá ở Quy Nhơn. Năm 1882, khi thực dân Pháp đổi tên cảng Thị Nại thành cảng Quy Nhơn, chợ Thị Nại cũng được đổi thành chợ Quy Nhơn.
Chợ Quy Nhơn xưa kia cũng nằm trên khu đất chợ lớn Quy Nhơn ngày nay. Mặt chợ giáp đường Oden D’ Hall nối dài (nay là đường Tăng Bạt Hổ); phía tây giáp hông nhà máy Đèn Quy Nhơn, đường Jules Ferry (nay là đương Phan Bội Châu). Chợ xây theo hình chữ U, có 4 dãy nhà ngói, cột gỗ. Sát khu đất nhà Đèn có xây một nhà kho dài để chứa hàng hoá của những người buôn bán tại chợ gởi lại ban đêm. Cạnh kho hàng nầy là quầy bán hàng thịt bò, heo. Giữa là gian bách hoá công nghệ. Cạnh đấy là dãy hàng rau xanh cao cấp. Gian bên phải (nay là khu vực đoạn đường Tăng Bạt Hổ giáp đường 1/4) là hàng cá được bố trí thành hai dãy. Tại chợ còn có một khoảnh đất trống (phía đường Phan Bội Châu ngày nay) là khu chợ trời dành cho bà con nông thôn đem heo, gà, vịt, rau quả... đến bán. Ngoài ra, còn có một khoảnh đất trống nằm sát hàng rào nhà máy Đèn dành cho bà con vùng ven thị xã chở tre vào dựng bán.
Tháng 10.1932 (tháng 9 năm Nhâm Thân) một trận bão lớn tràn vào tàn phá Quy Nhơn, làm cho chợ Quy Nhơn bị sụp đổ. Chợ được di dời nhóm tạm tại khu đất Porchier bỏ trống nằm gần đường Gia Long (nay là đường Trần Hưng Đạo). Sau hơn 2 năm xây dựng, đầu năm 1936, chợ Quy Nhơn mới được đưa vào sử dụng.
Chợ mới xây trên nền chợ cũ, cũng hình chữ U, nhưng không có kho chứa hàng như chợ cũ. Chợ kiên cố, cao ráo, sạch sẽ. Giữa sân chợ có xây một bể nước to, đủ nước để cho những người buôn bán trong chợ làm vệ sinh sạch sẽ suốt ngày. Các ngành hàng được sắp xếp, bố trí như chợ cũ. Phía đường 1/4 (ngày nay) có xây một nhà vệ sinh ba gian.
Về mặt quản lý, chợ do một số người Ấn Độ (nhân dân gọi là Chà Và) đấu thầu thu thuế chợ, về sau cho một số người Việt thầu lại. Từ năm 1936, khi cảng Quy Nhơn được nâng cấp, mở rộng, tuyến đường sắt xuyên Việt có nhánh chạy xuống Quy Nhơn và ga Quy Nhơn được đưa vào sử dụng, tỉnh lỵ Nam triều được đặt tại Quy Nhơn, chợ Quy Nhơn trở thành trung tâm buôn bán lớn nhát tỉnh và các vùng lân cận.
Sau hàng chục năm tiếp quản tỉnh Bình Định và thị xã Quy Nhơn, năm 1969, nguỵ quyền tỉnh Bình Định mới đầu tư xây dựng lại Chợ Lớn Quy Nhơn, cũng trên nền chợ cũ, nhưng kiên cố, khang trang hơn trước. Đầu năm 1974, Chợ Lớn Quy Nhơn bị hoả hoạn thiêu cháy rụi. Nguỵ quyền Bình Định cho xây chợ tạm ẩm thấp trên nền chợ cũ. Chợ nầy tồn tại cho đến ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước.
Dưới chính quyền dân chủ nhân dân, những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, thương nghiệp quốc doanh phát triển mạnh, việc kinh doanh, buôn bán của tư nhân ngày càng gia tăng, diện tích kinh doanh của chợ tạm xây từ năm 1974 dưới chế độ cũ không đủ sức dung nạp số hộ kinh doanh tại chợ. Tháng 1.1983, với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm“, thị xã Quy Nhơn khởi công xây dựng khu chợ 2 tầng 1/4, có diện tích kinh doanh trên 1.170 m2. Nhu cầu kinh doanh buôn bán ngày càng phát triển, tháng 9 năm 1985, tỉnh đầu tư xây dựng Chợ Lớn Quy Nhơn 3 nhà tầng nằm phía tây nam chợ 1/4. Chợ mới được xây dựng trên diện tích 9.206 m2; diện tích kinh doanh 7.884 m2. Chợ gồm 3 dãy nhà 3 tầng; dãy nhà phía đường Phan Bội Châu có tổng diện tích 2.764 m2; dãy nhà phía đường Tăng Bạt Hổ: 1.438 m2; dãy nhà phía đường Trần Quý Cáp: 1.281,2 m2. Nằm giữa 3 nhà chợ cao tầng và nhà chợ 1/4 là khu nhà lồng, chủ yếu dành cho các ngành hàng tươi sống, có tổng diện tích: 1.321,2 m2; trong đó có một nhà lồng lớn rộng 540 m2, 3 nhà lồng nhỏ mỗi nhà 216 m2 và 1 nhà lồng 150 m2 (được xây sau, do nhân dân đóng góp). Trong chợ có đầy đủ hệ thống vệ sinh công cộng, giếng nước và các phương tiện phòng cháy, chữa cháy. Chợ được khánh thành và đưa vào sử dụng đúng vào dịp kỷ niệm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, 3/2/1986. Chợ dung nạp trên 500 tiểu thương.
Đến giữa tháng 12.2006, Chợ Lớn Quy Nhơn bị cháy, gây thiệt hại hơn 134 tỷ đồng tài sản nhà nước và nhân dân, trong đó có hơn 124 tỷ đồng của hơn 500 tiểu thương kinh doanh buôn bán tại chợ .
Trên nền chợ cũ đã bị cháy, Công ty cổ phần Phát triển Đầu tư xây dựng và du lịch An Phú Thịnh xây dựng Trung tâm Thương mại Quy Nhơn theo phương thức BOT. Còn Chợ Lớn Quy Nhơn thì được xây mới tại một địa điểm khác cũng nằm trên địa bàn phường Lê Lợi.
Trung tâm Thương mại Chợ Lớn Quy Nhơn có tổng diện tích đất xây dựng công trình là 7.113 m2, trong đó diện tích xây dựng là 4.203 m2; diện tích sàn, kể cả tầng hầm là 40.802 m2; diện tích sử dụng trên 38.415 m2. Công trình có quy mô 8 tầng và một tầng hầm; được thiết kế 5 thang máy, thang nâng, 2 thang cuốn, cùng 4 cầu thang bộ, thang thoát hiểm; được trang bị hệ thống điều hoà không khí, hệ thống phòng cháy, chữa cháy hiện đại, hệ thống điện và hệ thống kỹ thuật thu gom rác thải, xử lý nước thải. Tại Trung tâm có trang bị máy camera bảo vệ, hệ thống thông tin liên lạc, đường truyền internet, truyền hình cáp…
Tháng 8.2008, Công ty cổ phần Phát triển Đầu tư xây dựng và du lịch An Phú Thịnh làm lễ khởi công xây dựng Chợ lớn mới Quy Nhơn. Chợ lớn mới được xây dựng tại phường Lê Lợi trên diện tích 12.000 m2, trong đó, diện tích đất sử dụng chiếm 11.000 m2. Chợ gồm các khối nhà lồng nằm ở trung tâm chợ; các khối ki ốt xung quanh khối nhà lồng, mặt ngoài trông ra các đường phố chính và các công trình phụ như nhà ăn bát giác, kho hàng, nhà vệ sinh công cộng…
Chợ Trà Quang
Chợ Trà Quang, huyện Phù Mỹ là một trong những chợ ra đời sớm nhất ở tỉnh Bình Định. Chợ nhóm cả ngày, buôn bán đủ các sản phẩm từ lương thực, thực phẩm đến hàng thủ công, hàng bách hoá.
Nay Chợ Trà Quang không còn ở chỗ cũ nằm sát Quốc lộ IA về phía tây, ở giữa khu dân cư, mà được xây mới khang trang ở phía đông đường, phía bắc chợ cũ.
Chùa chiền.
Vì đông đảo nhân dân theo đạo Phật nên trên địa bàn tỉnh Bình Định, tính đến năm 2005, có trên 40 ngôi chùa Phật giáo, trong đó có rất nhiều ngôi chùa cổ nổi tiếng, được chép trong sách “Đại Nam Nhất thống chí”.
Chùa Hàm Long
Chùa nằm trên địa phận thôn Thuận Nghi, phường Nhơn Bình, TP Quy Nhơn, bên sườn núi Hàm Long. Hàm Long là một dãy độc sơn không lớn lắm, nhưng khá nổi tiếng, được sách Đại Nam nhất thống chí ghi chép. Núi cao 92 mét gồm 5 cụm nối liền nhau, uốn khúc như thế rồng cuộn.
Xưa trên núi có ngôi đền cổ gọi là đền Hàm Long đã bị phá huỷ từ lâu. Dưới đền là một ngôi cổ tự có từ cuối thế kỷ XVII, thường gọi là chùa Hang hay Thiền Thất Giang Long, cũng gọi là chùa Hàm Long. Người lập ra Thiền Thất Giang Long là nhà sư Thiệt Đăng, tự là Chánh Trí, hiệu là Bảo Quang. Chùa nầy cũng đã bị phá huỷ từ lâu.
Ngôi chùa hiện nay tên chữ là Sơn Long tự (chùa Núi Rồng), nhân dân thường gọi là chùa Hang, chùa Hàm Long, được xây bằng xi măng cốt thép, gỗ rất ít. Chùa nằm sát chân núi trên một khu đất hẹp hình thang, đã qua nhiều lần trùng tu, cải tạo. Từ ngoài vào, qua tam quan hẹp là vườn hoa có tượng Phật đứng trước chính điện. Nóc chùa trang trí lưỡng long tranh châu, quyết chùa trang trí hình giao long uốn lượn. Chính điện bài trí đơn giản, chính giữa là tượng Thich ca, hai bên có tượng Phật bà Quan Âm và Thánh mẫu. Hai phía tả hữu chính điện có tượng ông Thiện, ông Ác cùng trống, chuông, khánh. Hậu tẩm thờ bài vị các vị sư trụ trì và tăng ni. Bên phải vườn chùa là tháp mộ các vị tổ kế tục nhau trù trì và tượng Phật bà Quan Âm trong thế đứng trang trọng trên đài sen cao khoảng 3 mét có mái che. Thời gian và biến cố lịch sử đã làm cho dấu tích ngôi chùa cổ hầu như không còn gì. Tượng thờ hiện nay mới được thỉnh về trong kháng chiến chống Mỹ. Ngoài ra, chỉ còn lại đôi câu liễn và một số bài vị của các sư tổ trụ trì.
Giá trị kiến trúc, điêu khắc của chùa Hàm Long không cao, nhưng giá trị lịch sử của quần thể núi - chùa Hàm Long lại rất đặc sắc.
Núi Hàm Long là điểm cao phía đông thành Hoàng Đế, một vị trí phòng thủ hết sức quan trọng. Nhà Tây Sơn đã cho đóng đồn trên núi nầy gọi là đồn Úc Sơn. Năm Quý Sửu - 1793, một trận chiến ác liệt đã diễn ra trên núi Hàm Long giũa nghĩa quân Tây Sơn và quân Nguyễn Ánh. Năm Ât Dậu - 1885, nghĩa quân Cần vương Bình Định do Đào Doãn Địch chỉ huy đã phục kích đánh Pháp tại núi Hàm Long. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, chùa được dùng làm trụ sở của Uỷ ban Liên hiệp đình chiến liên khu V, nơi nghỉ và làm việc của phái đoàn trung ương do đồng chí Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn về Bình Định chỉ đạo triển khai thi hành Hiệp định đình chiến. Những năm Mỹ-Diệm thực hiện “tố Cộng, diệt Cộng”, chùa Hàm Long là địa điểm liên lạc của các chiến sĩ Cộng sản. Nhờ có sự che chở, đùm bọc, cưu mang của nhà chùa và các nhà sư giàu lòng yêu nước, mà những năm đen tối nhất của cách mạng Miền Nam, các cơ sở Đảng, cơ sở cách mạng của địa phương được bảo tồn và trụ vững. Trong cuộc tổng tiến công, nổi dậy Tết Mậu Thân-1968, chùa Hàm Long là điểm tập kết của nhân dân Tuy Phước biểu tình nhập thị Quy Nhơn. Mùa xuân năm 1975, một đại đội quân chủ lực của ta đã phối hợp với du kích xã Nhơn Bình tập kích đồn địch trên núi Hàm Long, diệt gần 30 tên, phá huỷ 3 khẩu pháo 105 ly, cắm cao lá cờ Giải phóng phấp phới tung bay trên núi Hàm Long.
Chùa Hang
Nằm tại thôn Hội Khánh, xã Mỹ Hoà, huyện Phù Mỹ.
Trong một nhánh núi thuộc dải Trường Sơn ăn ra biển, tại địa phận xã Mỹ Hoà có một khối núi đá mang tên Lí Thạch; giữa lưng chừng núi là danh thắng có tên gọi là Thạch cốc tự (chùa Hang đá), còn có một tên khác là Thiên Sanh Thạch tự (chùa đá trời sinh). Chùa Hang là tên gọi phổ biến trong dân gian. Theo các cụ già sở tại kể lại thì người sáng lập chùa Hang là một vị sư thụ giới tại chùa Xà Bang (Ninh Thuận), đến núi Lí Thạch, thấy cảnh trí thiên nhiên thanh tú, không gian tĩnh mịch nên đã thiết lập bàn thờ Phật tại đây.
Núi Lí Thạch nằm giữa một vùng đồng lúa bao la, vườn cây xanh tốt. Đi theo con đường quanh co, khúc khuỷu được tạo bởi các bậc đá nhấp nhô tự nhiên, lên tới lưng chừng núi có một khoảnh đất nhỏ không mấy bằng phẳng, sẽ thấy cửa hang. Hang quay về hướng đông. ngay trên vòm cửa có một tảng đá mặt trên cong cong hình mu rùa, còn mặt dưới thì tương đối bằng phẳng, dày tới gần 2 mét, chạy dài hơn 10 mét, nhô ra phía trước đến 5-6 mét, tạo thành một mái che tự nhiên. Trong chùa có nhiều phiến đá tự nhiên ghép lại, hình thù giống như những cái bàn. Theo sách Đại Nam nhất thống chí, chùa có tới 15 cái bàn vuông, phía trong 3, phía hữu 5, phía tả 5 và tả hữu ngoài cửa mỗi bên một cái, đều có bậc đá. Phía trên chùa có lỗ thông ra sườn núi, phía dưới chùa có lối đi ra chùa Bắc Hộ. Lòng hang rộng chừng 5 mét, sâu khoảng 20 mét. Bàn thờ Phật được đặt trang trọng ở phần giữa hang. Trong cảnh tĩnh mịch, âm u, hang trở thành một phật đường thâm nghiêm, huyền bí. Phía trước bàn thờ Phật có một nhánh hang nhỏ thông xuống phía dưới. Dân gian truyền rằng nhánh hang nầy thông ra tận biển, nên nếu đem một quả bưởi thả xuống hang thì sẽ thấy quả bưởi lăn xuống mép nước ven biển.
Phía sau bàn thờ, đường vào hang càng đi càng hẹp lại và đi đến chỗ hẹp nhất, chỉ một người lách qua là đường thông lên núi. Trèo lên mái hiên trước cửa hang, chẳng những được ngắm cảnh núi đá nhấp nhô, hiểm trở, ruộng đồng bát ngát, mênh mông, mà còn có thể bao quát được cảnh trời biển bao la, xa thẳm đến tận chân trời
Chùa Linh Phong
Chùa Linh Phong toạ lạc ở lưng chừng đỉnh Chóp Vung - đỉnh cao nhất của dãy Núi Bà về phía đông nam - tại địa phận thôn Phương Phi, xã Cát Tiến, huyện Phù Cát. Đây là một ngôi chùa cổ tên gọi Linh Phong thiền tự, dân gian gọi là chùa Ông Núi. Sách Đại Nam nhất thống chí viết : “Chùa Linh Phong ở thôn Phương Phi, huyện Phù Cát, lưng dựa vào núi cao, mặt trông ra đầm biển cạn, xung quanh có nước suối lượn quanh, phong cảnh thật đẹp“.
Theo sử cũ, năm 1702 dưới triều Lê, ở Đàng Trong chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) đang trị vì, có một người tên là Lê Ban tức Thiền sư Tịnh Giác-Thiện Trì đến Núi Bà lập chùa tu hành. Ngôi chùa lợp bằng cỏ tranh được đặt tên là Dũng Tuyền. Nhà sư sống ở trên núi quanh năm, hiếm khi xuống đồng bằng. Nhà sư sống rất thanh bạch, dùng vỏ cây làm quần áo, nhân dân gọi nhà sư là Mộc Y Sơn (Ông Núi mặc vỏ cây) và đặt tên chùa là Chùa Ông Núi. Thỉnh thoảng nhà sư quảy một gánh củi xuống chân núi, đặt tại ngả ba đường có nhiều người qua lại rồi về. Dân sở tại, người nào cần củi thì đem gạo đến đó để đổi. Ngày hôm sau nhà sư mới quay lại lấy gạo, muối, không quan tâm thiếu đủ, nhiều ít. Nhà sư rất giỏi thuốc Nam. Mỗi khi trong làng có dịch bệnh, thầy chùa đem thuốc xuống cứu chữa mà không lấy tiền.
Tiếng lành đồn xa, chúa Nguyễn Phúc Chu xuống chiếu ban cho Ông Núi pháp hiệu Tịnh Giác- Thiện trì Đại lão Thiền sư; cho xây lại chùa và đổi tên là Linh Phong tự. Đến thời Võ vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), nhà sư được Chúa ban cho áo Cà sa có vòng ngọc móc vàng. Truyền rằng nhà sư viên tịch tại chùa vào khoảng thời Tây Sơn (1771-1802). Trong chùa hiện còn bảo tháp là mộ phần của nhà sư. Sử triều Nguyễn chép rằng “Vào năm Minh Mạng thứ 10 (1829), cho lấy bạc kho để trùng tu chùa“.
Sườn núi phía đông có một hang đá rộng ăn sâu vào trong núi, trong hang có những tảng đá tự nhiên xếp thành bàn, ghế. Đây là nơi Ông Núi đã từng sống và tu luyện. Dân gian kể rằng, cùng chung sống như bạn bè ở trong hang với nhà sư có hai con cọp mun, rất hiền lành, chỉ ăn trái cây chứ không ăn thịt sống.
Cảnh trí thanh tao, không gian tĩnh mịch đã thu hút biết bao tài tử, văn nhân đến chùa viếng cảnh, đề thơ. Trên vách tường chùa hiện còn lưu lại những bài thơ tức cảnh, gửi gắm tâm sự của nhiều thi nhân, trong đó có Đào Tấn. Năm 1895, cụ Thượng thư họ Đào đã cho tu sửa lại ngôi chùa khang trang và viết bài ký bằng chữ Hán “Linh Phong tự ký“.
Trải qua chiến tranh, năm 1965, ngôi chùa đã bị tàn phá, sụp đổ hoàn toàn. Hiện nay, ngôi chùa đã được xây dựng lại trông rất hoành tráng, khang trang. Trong hang đá có thiết lập bàn thờ Sư ông với tượng thể hiện hình ảnh một Thiền sư ung dung, tự tại, mình mặc áo vỏ cây, tay cầm thiền trượng làm bằng nhánh cây rừng.
Hàng năm, vào ngày 24, 25 tháng Giêng âm lịch, nhân dân Bình Định và các tỉnh trong vùng tấp nập kéo đến Chùa Ông Núi dự lễ hội, nhân ngày giỗ của Hoà thượng Thích Trừng Tịnh, một trong những nhà sư có nhiều đóng góp cho sự phát triển của nhà chùa.
Nhằm tôn vinh ngôi chùa cổ Linh Phong, một quần thể các công trình du lịch và tâm linh tại khu vực này đang được xây dựng với các hạng mục: Tượng Thế tôn Thích Ca Mâu Ni cao 108m, tính từ toà sen đến đỉnh tượng; Tượng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát; Tượng Thập bát La Hán; 12 con giáp; nhà thờ cúng, nhà nghỉ; cải tạo và xây mới đường lên xuống; hệ thống cáp treo và một số hạng mục phụ trợ.
Chùa Long Khánh
Chùa Long Khánh nằm ở trung tâm TP Quy Nhơn. Sách Đại Nam nhất thống chí viết: ”Chùa Long Khánh ở phía tây cửa Thị Nại, trong động cát ở thôn Cẩm Thượng, huyện Tuy Phước, mặt trông ra đầm Ngư Ki, do Hoà thượng Nguyễn Trinh Tường dựng từ năm Gia Long thứ 6“ (1807).
Minh văn khắc trên chuông được đúc vào năm Gia Long thứ 4 (1805)và ghi chép trong cuốn Lịch sử Chùa Long Khánh hiện được lưu giữ tại chùa đều viết rằng Chùa Long Khánh thuộc thôn Vĩnh Khánh, phủ Quy Nhơn do Thiền sư Tích Thọ của Thiền phái Lâm Tế tên là Nguyễn Trinh Tường khởi dựng. Nhưng theo các nguồn tài liệu Phật giáo khác thì người có công khởi dựng Chùa Long Khánh là Thiền sư Đức Sơn, trước Tích Thọ 3 đời. Thần vị của Hoà thượng Đức Sơn hiện được thờ tại Tổ đình.
Chùa Nhạn Sơn
Là một trong 5 ngôi chùa cổ ở tỉnh Bình Định được sách Đại Nam nhất thống chí ghi danh, Chùa Nhạn Sơn nằm tại địa phận thôn Nhạn Tháp, xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn. Chùa có quy mô nhỏ, kiến trúc và bề dày lịch sử không có gì độc đáo, nhưng nổi tiếng vì chùa khá điển hình cho đặc trưng văn hoá Bình Định. Đó là sự giao thoa giữa văn hoá Chăm và văn hoá Việt. Đặc biệt, trong chính điện có thờ hai pho tượng đá khổng lồ, một sơn đỏ, một sơn đen. Vì thế mà nhân dân địa phương còn gọi chùa nầy là Chùa Ông Đen, Ông Đỏ hay Chùa Ông Đá. Sách Đại Nam nhất thống chí chép rằng : “Chùa Mạn sơn, tục gọi Chùa Ông Đá, ở thôn Nhạn Tháp, huyện Tuy Viễn, về phía nam thành Chà Bàn. Trong chùa có hai tượng đá đứng hai bên nhìn nhau trên viên đá vàng, mình cao hơn 6 thước, lưng rộng 5 thước, một pho sơn son, một pho sơn đen, thầy chùa chế áo xiêm, mũ đai bằng vải vẽ hình mây rồng mặc vào, trông như hình người còn sống. Tương truyền tượng ấy là tượng Phật của người Chiêm Thành...”
Chưa có tài liệu nào xác định thời điểm lập chùa mà chỉ toàn là truyền thuyết. Theo đó, lúc mới dựng lên, chùa có tên là Thạch Công tự, Sung Nghĩa tự, Nhạn Sơn linh tự và Nhạn Sơn tự (chùa Ông Đá).
Hai pho tượng đặt tại chùa Nhạn Sơn cao tới 2,2 mét, vốn gốc được người Chăm thể hiện trong tư thế đứng đối xứng nhau rất sống động, dáng vẻ thật dữ dằn. Đây là hai tượng Môn thần (Daravapalla, thần giữ cửa), người Việt quen gọi là Hộ pháp. Pho tượng sơn đỏ tay phải đưa ra ngang tầm ngực rất tự nhiên, tay trái vốn cầm một quả chuỳ bầu dục nhưng người Việt đã chắp thêm một đoạn phía trên quả chuỳ biến nó thành cây thiết trượng. Hai cổ tay đều đeo vòng tràng hạt. Hai cổ chân cũng đeo vòng tròn nhưng khác nhau, vòng tròn chân phải là hình một con rắn, vòng tròn chân trái phía trước chạm nổi lá đề. Pho tượng sơn màu đen đứng bên trái tư thế giống như pho tượng bên phải. Tay cầm thiết trượng, cổ tay đeo tràng hạt, hai cổ chân chống hai con rắn, bệ tượng tròn, chạy xung quanh là những vòng tràng hạt. Tay phải bị gãy hiện được đắp bằng xi măng. Cả hai pho tượng đều có miệng lớn, mũi bành rộng, lưng gãy, ngực hơi ưỡn ra phía trước. Y phục của hai pho tượng đã được Việt hoá: hai vị đều mặc áo đại bào, đầu đội mũ đằng giống như các vị thần trong chùa Vịệt
Có huyền thoại nói rằng hai pho tượng trên là tượng của đôi bạn tri kỷ Huỳnh Tấn Công (quê Hoá Châu, Huế) và Lý Xuân Điền (quê Ninh Bình) là bậc anh tài được vua Trần trọng dụng. Huỳnh Tấn Công được cử đi đánh Chămpa, chẳng may bị bắt làm tù binh. Nhờ có tài xem mạch, bốc thuốc, Huỳnh Tấn Công đã chữa cho vị quan chủ nô của mình thoát khỏi thần chết của bệnh hiểm nghèo, nên được vị đại thần sủng ái. Sau khi dẹp xong giặc phương bắc trở về, hay tin Huỳnh Tấn Công đang lưu lạc nơi đất Chiêm, Lý Xuân Điền quyết chí vào nam tìm bạn. Cảm kích trước tình bạn thuỷ chung, quan Chiêm đồng ý cho Huỳnh Tấn Công cùng bạn trở về quê hương. Hai người ra đi được ít lâu, vì thương nhớ, vị quan người Chiêm đã cho tạc tượng hai ông để hằng ngày được ngắm nhìn cho thoã. Nhân dân địa phương còn kể rằng từ mấy trăm năm trước, hai tượng đá bị chôn vùi dưới đất bỗng trồi lên, họ đưa hai pho tượng về thờ tại chùa được đặt tên là Song Nghĩa tự.
Truyền thuyết thực hư thế nào chưa có nhà sử học nào kết luận. Nhưng đối với người dân thì trước nay họ vẫn tin rằng hai pho tượng đá chùa Nhạn Sơn là rất thiêng, cầu đảo thường ứng nghiệm, nên họ thường xuyên đến chùa cầu xin Đức Phật và hai pho tượng thiêng phù hộ, độ trì mọi sự tốt lành.
Chùa Phước Sơn
Phước Sơn Tự do ông Võ Văn Thọ, chánh phái Võ tộc đời thứ hai lập khoảng đầu thế kỷ XVIII (Võ Văn Thọ là ông nội của danh tướng nhà Tây Sơn, Võ Văn Dũng). Lúc đầu Chùa Phước Sơn được lập tại làng Phú Mỹ (huyện Tuy Viễn), xây bằng gỗ, lợp tranh, về sau được Võ Văn Dũng chuyển về xây dựng kiên cố tại vị trí hiện nay là thôn Phú Mỹ, xã Tây Phú, huyện Tây Sơn. Sau gần 200 năm do họ Võ tạo dựng, tu sửa, quản lý thờ tự đến năm 1960, họ Võ tiến cúng Chùa Phước Sơn cho Hoà thượng Huệ Chiểu, trụ trì Chùa Thập Tháp. Trụ trì đầu tiên của Chùa Phước Sơn là Thiền sư Khổng Mật, hiệu Huệ Chánh (sư đệ của Hoà thượng Huệ Chiểu). Trụ trì thứ hai là Thiền sư Như Trung, tự Thiện Chí, hiệu Ấn Tông. Đương kim Trù trì là Thiền sư Nhật Vinh, tự Thanh Hiển (đệ tử của đại sư Như Trung quy tịch năm Bính Tý-1996).
Trong Nhà Tổ, hai bên chính điện hiện còn hai câu liễn đắp trên trụ vôi nhắc đến lai lịch ngối chùa:
“Tích Võ tộc tiên linh sáng tạo, tằng ưu tư bách tánh quần sanh câu giác ngộ; Kim Từ tông trưởng lão trùng tu, diệc thiết niệm cửu liên tịnh độ cộng gia hương” (tạm dịch: Xưa tiên linh họ Võ xây to, những mong trăm họ, muôn loài đều bên bờ giác; Nay trưởng lão họ Từ sửa lớn, luôn nghĩ sen vàng, đất sạch, ấy gọi quê nhà).
Ngoài ra, còn có hai thần vị cao 60 cm, rộng 20 cm, một của họ Võ, một của Võ Văn Dũng. Thần vị Võ tộc viết: “Phụng vị Võ tộc tiền hậu hiền chư hương linh chi thần vị” (Thần vị tiền hiền hậu hiền, các hương linh họ Võ cung kính). Thần vị của Võ Văn Dũng viết: “Phước Sơn Tự chủ tự tánh Võ, tự Văn Dũng, huý Độ, tịnh hữu công đức chư vong linh chi thần vị”. (Thần vị vong linh chủ Chùa Phước Sơn do Võ Văn Dũng, tên huý là Độ cúng các vong linh có công đức với Chùa). Thần vị có ghi ngày cung tạo là ngày 14 tháng 7 năm Tân Sửu, ngày cầu siêu hàng năm là 20 tháng 3.
Chính điện Chùa Phước Sơn có 3 cổ vật quý bằng gỗ là tượng Phật A Di Đà, tượng Bồ tát Phổ Hiển và tượng Quan Thánh, mỗi tượng đều cao 80 cm. Đây là những tượng được thỉnh về từ Bắc Hà, sau khi Võ Văn Dũng theo Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ ra Đàng Ngoài đánh quân Trịnh năn 1786. Tượng Quan Thánh Chùa Phước Sơn mặt đỏ, không giống tranh, tượng Quan Thánh truyền thống, trang phục kiểu long bào và tượng lại giống tượng Đức Ông (Quang Trung) ở chùa Bộc (Hà Nội). Nhiều suy đoán cho rằng hình tượng vua Quang Trung được thờ dưới dạng Quan Thánh tại Chùa Phước Sơn là để tránh sự trả thù của triều Nguyễn.
Hiện nay, tượng Phật A Di Đà được thờ tại chính điện Chùa Phước Sơn, còn tượng Bồ tát Phổ Hiển và tượng Quan Thánh và thần vị Võ Văn Dũng được Chùa cho mượn trưng bày tại Bảo tàng Quang Trung.
Chùa Phước Sơn là một di tích lịch sử văn hoá thời Tây Sơn cần được bảo tồn.
Chùa Thập Tháp
Chùa Thập Tháp hay Thập Tháp Di Đà tự là một trong 5 ngôi chùa cổ của tỉnh Bình Định được chép vào sách Đại Nam Nhất Thống chí với lời đánh giá: “Chùa nầy với chùa Linh Phong đều nổi tiếng là danh thắng“.
Chùa Thập Tháp nằm ở phía bắc thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận thôn Vạn Thuận, phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn.
Chùa được xây dựng trên một gò đất tương đối rộng hình mai rùa có chu vi gần 1 km, gọi là gò Thập Tháp. Nơi đây, xưa kia có mười ngọn tháp do người Chăm xây để yểm hậu cho thành Đồ Bàn (Vijaya). Chùa quay hướng đông, trước cổng tam quan là một ao sen rộng chừng nửa mẫu, không bao giờ cạn nước; bờ ao xây bằng đá ong. Xa xa là ngọn Thiên Đỉnh sơn (núi Mò O), quanh năm lãng đãng sương mây. Phía nam là thành Đồ Bàn, có tháp Cánh Tiên sừng sững. Vây bọc sau lưng, bên trái rồi lượn về đông là nhánh sông Quai Vạc, một chi lưu của sông Côn.
Chùa được bao quanh bằng lớp tường thành mới xây dựng lại. Tam quan có hai trụ cao và to, trên đỉnh đắp tượng sư tử, hai mặt trong và ngoài đều có đôi câu đối.
Chùa có kiến trúc hình chữ khẩu, bao gồm 4 khu vực chính. Khu chính điện có diện tích khoảng 400 m2, khu phương trượng khoảng 130 m2, khu tây đường khoảng 120 m2 và khu đông đường khoảng 150 m2, được nối với nhau bằng một sân rộng có trồng nhiều cây cảnh.
Chính điện là một kiến trúc tương đối đồ sộ, kết cấu gỗ chiếm phần chủ yếu và cũng là nơi còn lưu giữ nhiều dấu ấn của lần trùng tu năm 1749. Đó là một toà nhà rộng gồm 5 gian, có hành lang bao bọc dài 330 mét, rộng 20 mét; ba gian giữa là Đại Hùng điện (điện thờ), hai gian phụ hai bên là Phòng Chúng tăng, được ngăn cách với điện thờ và hành lang trái bởi một vách lụa. Kết cấu bộ sườn chính điện gồm 4 hàng cột cái và 4 hàng cột con, trong đó, 8 cột hàng nhất cao 6 mét, 8 cột hàng nhì cao 5 mét; cột to một người ôm không xuể. Các đoạn trính (hoành) cấu tạo kiểu giá chiêng, hai đầu chạm hoa cuộn; ở những điểm đầu kèo, vật kê đều chạm hình rồng cách điệu. Bụng các đoạn trính, xuyên đều chạm hoa văn. Khám thờ chính trong nội điện đặt theo hàng cột nhất, mấy khám chạm lưỡng long tranh châu, thờ tượng Tam thế Phật: Thích Ca, Di Đà, Di Lặc (đúc bằng đồng, cao gần 2 mét). Hai khám phụ hai bên có bố cục giống khám chính, nhưng cấu trúc và hoạ tiết trang trí đơn giản hơn. Khám bên trái thờ tượng Phật Quan Âm làm bằng đất nung sơn thiếp, cao 0,9 mét. Ngoài ra, còn có 3 khám thờ khác đặt ở hai vách hông và đối diện với khám chính trước hành lang.
Khu Phương trượng được cải tạo và nâng cấp vào năm Quý Sửu-1913, xây bằng gạch, lợp ngói âm dương, dàn mái cấu tạo nhiều lớp cao thấp. Khu phương trượng có bộ sườn gỗ và dàn khám thờ có kỹ thuật chạm trỗ, lắp ráp rất đẹp. Khu nầy gồm 3 gian; gian giữa là án thờ Hoà thượng Phước Huệ (1869-1945) với bức chân dung toàn thân; 2 gian bên là chỗ nghỉ cho khách tăng.
Khu Đông đường bên trái và Tây đương bên phải, đối xứng nhau. Đông đường được trùng tu gần như mới vào năm 1967, là nơi tiếp khách và chỗ ở của tăng chúng. Tây đường có lối kiến trúc gần giống phương trượng, mái lợp ngói âm dương, là nơi thờ phụng Sơ tổ khai sơn Nguyên Thiêu, chư vị kế thừa và Phật tử qua cố. Chân dung Tổ sư Nguyên Thiều thờ tại án trước, án sau thờ chư vị chủ trì kế thừa cùng những người có công đức góp phần xây dựng chùa (tổng cộng có 20 long vị); hai bên thờ vong linh thiện nam, tín nữ từ nhiều đời đến nay.
Ngoài 4 hạng mục nói trên, ở khu vực phía tây còn có Nhà Thánh, kiến trúc đơn giản, thờ Cửu Thiên Huyền Nữ, Quan Công, Thập Điện Diêm vương. Phía đông, gắn liền với dãy đông đường là nhà trù (bếp). khu Mộ tháp nằm bên trái chùa gồm 21 bảo tháp lớn nhỏ, mang phong cách kiến trúc của nhiều thời kỳ khác nhau. Xưa nhất là tháp Đạo Nguyên Thiền Sư (1656-1716) và Minh Giác Kỳ Phương (1682-1774).
Trong chùa đến nay còn giữ được nhiêu di vật quý. Đó là đôi câu liễn sơn thếp, cao 2,5 mét, ghi bài ngự đề của chúa Nguyễn Phúc Chu, đạo hiệu Từ Đế Đạo Nhân cúng cho chùa vào năm Tân Tỵ-1701, hiện để ở chính điện; một tấm hoành sơn thiếp, rộng 0,9 mét, dài 5 mét đề Thập Tháp Di Đà tự do Hoà thượng Mật Hoằng, trụ trì chùa Thiên Mụ phụng tạo vào năm Minh Mạng nguyên niên, 1820, hiện được treo ở trước chính điện. Ngoài ra, còn có tấm hoành ghi nội dung bài kệ của Hoà thượng Vạn Phong, tổ 31 phái Lâm Tế do Hoà thượng Minh Lý cung tạo năm 1874. Đặc biệt, trong chùa còn lưu giữ trên 11.500 bản tạng kinh khắc gỗ và 389 bộ kinh giấy.
Theo các nguồn sử liệu, vào năm Ât Tỵ-1665, đời chúa Nguyễn Phúc Tần có một nhà sư Trung Quốc, họ Tạ, huý Nguyên Thiều, thuộc dòng Thiền Lâm Tế đến vùng Tuy Viễn dựng một thảo am (lều cỏ) để truyền đạo Phật. Đến năm Quý Hợi-1683, một ngôi chùa khang trang được hưng công xây dựng mà vật liệu chính là gạch đá lấy từ 10 ngọn tháp Chăm bị đổ. Đến năm Tân Mùi-1691, chúa Nguyễn Phúc Chu ban cho chùa biển ngạch đề Thập Tháp Di Đà tự. Lập xong chùa, theo lệnh chúa Nguyễn, Thìến sư Nguyên Thiêu lãnh sứ mệnh đi mở mang Phật pháp cho cả xứ Đàng Trong, giao chùa lại cho bạn đồng môn là Hoà thượng Đạo Nguyên (1656-1716) và đệ tử xuất sắc là Hoà thượng Kỳ Phương (1682-1744) ở lại trụ trì. Sau Hoà thượng Kỳ Phương đến Hoà thuọng Liễu Triệt (1702-1764). Vào năm Kỷ Tỵ-1749, thời Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, chùa được trùng tu trên quy mô lớn. Thời Hoà thượng Hạo Nhiên (1712-1784) và Hoà thượng Hữu Phỉ (?-1799) trụ trì, thì phong trào khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ. Các lãnh tụ nghĩa quân Tây Sơn đã chọn chùa Thập Tháp làm đại bản doanh trong giai đoạn đầu với những cuộc xuất quân thần kỳ đánh nam, dẹp bắc. Đến đời Hoà thượng Huệ Nhất (1752-1826) và Hưng Long (1752-1836) trù trì, thì chùa được tu sửa lại. Năm Minh Mạng thứ nhất, 1820, Hoà thượng Mật Hoằng trù trì chùa Thiên Mụ đứng ra trùng tu chùa Thập Tháp, nhưng dấu vết để lại không đáng kể. Đến đời Hoà thượng Minh Lý (1836 -1889), chùa được trùng tu trên quy mô lớn, kéo dài nhiều năm. Chính điện được nâng cao, cả phần kiến trúc và nghệ thuật trang trí đều được hoàn chỉnh. Ba mươi pho tượng lớn nhỏ đã được tạo tác; bên dưới mỗi pho tượng đều có ghi dòng chữ: ”Giáp Tuất niên (1874) trù trì Minh Lý Hoà thượng cung tạo”. Sáu khám thờ chính và phụ cùng một số hoành phi được trùng tu. Ngoài ra, Hòa thượng Minh Lý còn cho khắc tấm biển đề “Pháp phái Lâm Tế chính phổ“ chép bài kệ của Hòa thượng Vạn Phong vào năm 1874, cho dựng bia sắc tứ Thập Tháp Di Đà tự bi minh vào năm 1876 và cho khắc trên 300 bản in kinh Phật bằng gỗ. Dưới đời Hoà thượng Vạn Thành (1865-1905) trụ trì, đã thuê đúc một quả chuông lớn đường kính 0,7 mét, cao 1,5 mét, nặng 835 kg. Tiếp đó đến đời Hoà thượng Phước Huệ (1869-1945), công việc tu sửa vẫn được tiếp tục, đặc biệt, năm 1924, phương trượng và tam quan được xây dựng lại. Đến đời Hoà thượng Huệ Chiểu (1898-1965) và Hoà thượng Kế Châu (1921-1975), các nhà sư trụ trì và phật tử chùa Thập Tháp đã có những đóng góp đáng kể trong cuộc đấu tranh chống xâm lược, giành độc lập dân tộc.
Trải qua trên ba trăm năm tồn tại với 15 vị hoà thượng trụ trì thuộc 9 đời (từ đời 32 đến đời 41 dòng Thiền Lâm Tế), từ một thảo am đơn sơ, Thập Tháp Di Đà tự đã trở thành một công trình kiến trúc Phật giáo có quy mô hoành tráng, một di tích văn hoá có giá trị lớn lao trên nhiều phương diện, nên đã được xếp hạng là Di tích quốc gia.
Cuộc tập kích chiến lược Tết Mậu Thân-1968
Trong khi quân dân toàn tỉnh đang khẩn trương và hồ hởi chuẩn bị thực hiện quyết tâm của Trung ương Đảng “Tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định“, thì từ 28.12.1967 đến 25.1.1968, địch tăng cường càn quét, đánh phá dữ dội các vùng giải phóng khu vực Núi Bà, đông nam Phù Cát và đông bắc An Nhơn, đông nam Hoài Ân và tây Phù Mỹ, gây cho ta nhiều tổn thất và khó khăn. Lực lượng vũ trang giải phóng bị tổn thất trong 2 mùa khô chưa kịp củng cố, trung đoàn chủ lực chỉ còn vài trăm chiến sĩ, có tiểu đoàn còn không tới 100 tay súng. Hành lang đông tây thường xuyên bị địch càn quét, tập kích, ném bom, bắn pháo làm cho việc tiếp tế hậu cần, triển khai lực lượng phải tốn nhiều xương máu. Nhiều cán bộ khu, tỉnh về khu Đông tăng cường cho cơ sở hy sinh; cán bộ huyện, xã và du kích các xã đông An Nhơn, đông bắc Tuy Phước còn rất mỏng.
Tuy nhiên, mọi công việc chuẩn bị mở chiến dịch tổng công kích có mật danh T25 vẫn được triển khai chu đáo, chặt chẽ từ trong Đảng ra ngoài quần chùng, từ lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị đến công tác hậu cần, từ tỉnh đến cơ sở, từ vùng giải phóng đến vùng địch kiểm soát. Tỉnh tổ chức đợt chỉnh huấn trong toàn Đảng bộ, trong các lực lượng vũ trang và quần chúng nhân dân vùng giải phóng, nhằm quán triệt sâu sắc tinh thần, nội dung, mục đích, mục tiêu chiến dịch tổng tấn công, nổi dậy T25. Để thống nhất chỉ đạo, chỉ huy các hoạt động trong chiến dịch, Tỉnh thành lập Ban Chỉ đạo mặt trận Bình Định; phân công cụ thể các hướng tấn công của các đơn vị bộ đội chủ lực khu và bộ đội địa phương. Lực lượng đấu tranh chính trị được tổ chức thành 590 đại đội với 272.000 người, được tập dượt trước. Các huyệnTuy Phước, Hoài Nhơn, Phù Mỹ tổ chức một số đại đội sẵn sàng chi viện cho Quy Nhơn. Trong vùng địch kiểm soát cũng thành lập các khung trung đội, đại đội đấu tranh chính trị để khi cần, có thể tập hợp nhanh quần chúng xuống đường. Hầu hết cán bộ lãnh đạo chủ chốt của tỉnh đều được phân công đứng chân tại trọng điểm và các huyện. Tại Quy Nhơn, tỉnh điều 6 cán bộ nữ hợp pháp tăng cường cho nội thị; lập Ban Cán sự các khu phố; bố trí Bí thư Thị uỷ vào nội thị trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo phong trào; tranh thủ một số sĩ quan cảnh sát, một số đơn vị quân nguỵ và một số trí thức sẵn sàng đứng về phía cách mạng. Các cơ sở cách mạng trong thị xã đều được chuẩn bị tốt về tư tưởng, tinh thần sẵn sàng đi đầu trong tấn công và nổi dậy.
Gần đến ngày ta mở màn chiến dịch T25, địch thường xuyên càn quét, đánh phá, lùng sục các xã Phước Sơn, Phước Thuận, Phước Hậu, nhất là các thôn Hưng Thạnh, Lương Nông là bàn đạp ta tấn công Quy Nhơn. Sự liên lạc giữa trên với dưới, giữa phía trước và phía sau, giữa trong và ngoài thị xã bị gián đoạn. Tại Quy Nhơn, gần đến giờ ta nổ súng, cơ quan Thị uỷ và Thị đội Quy Nhơn bị địch đánh phá; đồng chí Bí thư Thị uỷ Biên Cương, người nắm toàn bộ kế hoạch hành động của ta trong nội thị, bị địch bắt. Địch thiết quân luật, cấm thuyền bè đi lại trên đầm Thị Nại; tăng cảnh sát dã chiến, tăng quân Mỹ bảo vệ dinh Tỉnh trưởng và các vị trí then chốt...
Chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, hoà chung với khí thế tổng công kích và nổi dậy của các đô thị toàn Miền Nam, với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh“, quân dân Bình Định đồng loạt tấn công và nổi dậy ở thị xã Quy Nhơn và hầu hết các quận lỵ, thị trấn, các căn cứ quân sự xung yếu, các sân bay, kho tàng của địch trong tỉnh.
Do không nhận được lệnh hoãn giờ nổ súng, nên tại trọng điểm Quy Nhơn, theo kế hoạch, đúng 3 giờ sáng ngày 30.1.1968 (tức đêm giao thừa Tết Mậu Thân), các cánh quân của ta từ nhiều hướng đánh thốc vào nội thị. Trong khi Tiểu đoàn 50 và D10 của tỉnh cùng lúc tấn công, nhanh chóng chiếm lĩnh các vị trí then chốt trong thị xã như dinh Tỉnh trưởng, đài Phát thanh, Quân vụ thị trấn, ga xe lửa, đồn Cảnh sát Bạch Đằng, thì Trung đoàn 10 quân Giải phóng đánh chiếm đèo Cù Mông.
Hoà cùng tiếng súng cách mạng, mặc dù địch ra lệnh cấm đốt pháo trong 3 ngày tết, nhân dân thị xã vẫn đốt pháo vang trời, dậy đất, khiến địch vô cùng hoảng loạn. Khi quân ta chiếm lĩnh đài Phát thanh và các mục tiêu khác trong nội thị, hàng nghìn đồng bào ta đã hỗ trợ quân Giải phóng lập chướng ngại vật ngăn cản quân địch. Ngay trong đêm giao thừa ta tấn công vào Quy Nhơn, hơn 1.000 đồng bào các xã Phước Hậu, Phước Sơn, Phước Hoà (Tuy Phước), rầm rộ tiến vào nội thị, giương cao băng cờ, khẩu hiệu chống Mỹ-nguỵ. Vừa đến Chợ Dinh, đoàn biểu tình bị địch bắn doạ và chặn lại, nhân dân xáp vào tấn công binh địch vận.
Sau khi đánh chiếm Quân vụ thị trấn, quân ta giải thoát đống chí Bí thư Thị uỷ và hàng chục cán bộ, đồng bào ta bị địch bắt giam tại đây. Tại khu chiến đài Phát thanh nguỵ, chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt. D10 đặc công đã bám trụ tại đây đến ngày 5.2.1968 (6 ngày) đánh lui 4 đợt phản kích của địch, bắt 200 tù binh. Sau khi được giải thoát, đồng chí Biên Cương đến đài Phát thanh sát cánh cùng Tiểu đoàn trưởng Võ Mười và các chiến sĩ D10 chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và đã anh dũng hy sinh.
Tại đèo Cù Mông, trong các ngày 1 và 2.2.1968, Trung đoàn 10 đẩy lui hàng chục đợt phản kích của 10 tiểu đoàn quân Mỹ-nguỵ và Nam Triều Tiên từ ngoài vào ứng cứu.
Cùng thời gian trên, Sư đoàn 3 quân Giải phóng và lực lượng vũ trang các huyện đồng loạt công kích các quận lỵ, trị trấn và căn cứ địch.
Tại Phù Mỹ, đêm 29.1.1968, khi các chiến sĩ Sư đoàn 3 cắt rào ém sát quận lỵ thì nhận được lệnh điều chỉnh giờ nổ súng, quân ta phải rút ra. Địch phát hiện, tổ chức bao vây, truy kích, gây cho quân ta nhiều thương vong. Từ phương án công kích quận lỵ, sáng 31.1.1968, ta chuyển sang tấn công tiêu diệt địch ngoài quận lỵ ở Đèo Nhông, Mỹ Hoà, Mỹ Trinh, Rừng Quán. Gần 12.000 quần chúng các xã của huyện Phù Mỹ được huy động nhập quận lỵ, nhận được lệnh hoãn giờ nổi dậy, chỉ có hơn 1.000 người nhập quận, số còn lại toả đi bao vây các chốt điểm và trực diện đấu tranh với bọn nguỵ quyền thôn xã. Phụ nữ và thiếu nhi các xã Mỹ Thọ, Mỹ Thắng, Mỹ An, Mỹ Lợi đã mưu trí và dũng cảm chặn xe M113, tấn công chính trị bọn Mỹ.
Tại Hoài Nhơn, đêm 31.1 rạng ngày 1.2.1968, lực lượng vũ trang địa phương cùng lúc tấn công địch ở An Đông, sân bay nhà thờ Dốc, căn cứ Đệ Đức, Tam Quan. Phối hợp với tấn công quân sự, 30.000 lượt quần chúng nổi dậy bao vây quận lỵ Bồng Sơn, thị trấn Tam Quan, căn cứ Đệ Đức; địch nổ súng chặn lại, gây thương vong gần 100 đồng bào ta. Nhiều mẹ bị địch bắt đánh đập, tra tấn dã man vẫn không một lời khai báo.
Tại Bình Khê, quân ta đánh vào chi Công an địch và các đồn Phú Mỹ, Phú Thọ, Đồng Phó, Bình Giang, Bình Tường. Hàng nghìn dân thị trấn Phú Phong nổi dậy đấu tranh chính trị trực diện với địch.
Các quận lỵ Hoài Ân, Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước cũng bị quân ta pháo kích và tấn công. Hàng nghìn quần chúng nhân dân Phù Cát và Tuy Phước nhập quận đấu tranh.
Tuy bị tổn thất khá nặng nề, nhưng cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân- 1968 của quân dân Bình Định đánh đòn tập kích táo bạo vào nội thị Quy Nhơn và một số thị trấn-quận lỵ, đưa chiến tranh nhân dân vào tận sào huyệt địch, đã góp phần to lớn vào thắng lợi vang dội Tết Mậu Thân-1968 của quân dân toàn Miền Nam, đẩy địch vào thế bị động, buộc phải xuống thang chiến tranh.
Cuộc tổng tấn công, nổi dậy Xuân 1975
Đầu năm 1975, cách mạng Miền Nam nói chung và Bình Định nói riêng đứng trước thời cơ thuận lợi như thời kỳ cuối 1964 đầu 1965. Trước tình thế mới vô cùng có lợi cho cách mạng Miền Nam, Bộ Chính trị quyết định giải phóng Miền Nam trong 2 năm 1975-1976. Đầu năm 1975, Bộ Chính trị họp mở rộng đề ra kế hoạch thời cơ, dự kiến giải phóng Miền Nam trong năm 1975.
Trên địa bàn tỉnh Bình Định, cuối 1974 đầu 1975, địch mở “Chiến dịch Nguyễn Huệ 1.1975” với mục tiêu hoàn thành kế hoạch “bình định” tỉnh Bình Định trong quý I năm 1975. Chúng tập trung 4 trung đoàn 40, 41, 42, 47 Sư 22 nguỵ ra phía bắc tỉnh, tăng cường đánh phá ác liệt nhằm lấn chiếm các vùng giải phóng của ta.
Tỉnh uỷ đề ra mục tiêu chủ yếu của tỉnh nhà trong năm 1975 là: “Đánh bại một bước quan trọng kế hoạch lấn chiếm và “bình định” của địch; giữ vững và mở rộng vùng ta, tiến lên giải phóng, làm chủ đại bộ phận nông thôn đồng bằng”.
Chuẩn bị cho chiến dịch Xuân 1975, hàng ngàn tấn hàng chi viện được vận chuyển, cất giấu tại các kho Hóc Đèn, dốc Bà Bơi (Hoài Ân); các tuyến đường An Lão-Ân Nghĩa (Hoài Ân), Kon Hà Nừng-dốc Bà Bơi và tuyến dọc 2 bờ sông Côn xuống bắc đường 19 cùng các đường nhánh được mở ra. Toàn tỉnh mở đợt sinh hoạt chính trị trong các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể giải phóng, trong các lực lượng vũ trang nhân dân, nhằm nhận rõ thời cơ và nhiệm vụ sắp đến, nâng cao nhận thức và trách nhiệm trước thời cơ chiến lược; tiến hành cuộc vận động “3 xây, 3 chống” (xây dựng tinh thần và ý thức trách nhiệm, xây dựng ý thức tổ chức-kỷ luật, xây dựng phong cách lãnh đạo, chỉ đạo; chống hữu khuynh, ảo tưởng hoà bình, chống đại khái, bảo thủ, chủ quan, tuỳ tiện, chống quan liêu mệnh lệnh).
Tỉnh Bình Định là một trong hai hướng tiến công chiến dịch quan trọng của khu V, nên lực lượng quân sự được bố trí như sau:
- Sư đoàn 3 chủ công mở khu chiến trên đường 19, từ dưới đèo An Khê, vừa làm nhiệm vụ chia cắt chiến lược giữa đồng bằng và Tây Nguyên, vừa căng kéo chủ lực địch đến để tiêu diệt, tiêu hao lớn, hỗ trợ quân dân địa phương tấn công và nổi dậy.
- Lực lượng vũ trang địa phương mở các khu chiến, hướng tấn công chính là đông bắc Bình Khê-tây An Nhơn, nam Phù Cát-đông An Nhơn và Tuy Phước, trong đó nam Phù Cát-đông An Nhơn-đông Tuy Phước là trọng điểm của tỉnh,
Các huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, bắc Phù Cát, nam Tuy Phước và Vân Canh là chiến trường phối hợp.
Đúng 5 giờ 35 phút sáng 4.3.1975, sau tiếng mìn đánh sập cầu 12 của Tiểu đoàn 19 Công binh tỉnh, các đơn vị của Sư đoàn 3 đồng loạt nổ súng tấn công hàng chục chốt điểm địch ở nam và bắc đường 19, từ lăng Mai Xuân Thưởng lên đèo Thượng Giang và từ Truông Ổi đến Tiên Thuận (xã Bình Giang, Bình Khê), mở màn chiến dịch Xuân 1975 trên chiến trường Bình Định và chiến trường khu V.
Tại khu chiến đường 19, từ 4 đến 9.3.1975, Sư đoàn 3 diệt gần 20 chốt địch từ Cây Rui đến cầu 16 và Truông Ổi-Tiên Thuận; đánh thiệt hại nặng Trung đoàn 47, Sư 22 cộng hoà và Liên đoàn bảo an 927; làm chủ hàng chục cây số đường 19, chia cắt Tây Nguyên và đồng bằng khu V. Địch vội điều 2 trung đoàn 41, 42 của Sư 22 nguỵ đang đóng giữ ở Phù Mỹ, Bồng Sơn cùng 3 chi đoàn của Thiết đoàn 14 vào đường 19 phản kích giải toả, tạo sơ hở cho quân dân Bình Định ở các khu chiến khác dồn dập tấn công và nổi dậy.
Đêm 5 rạng 6.3, tại khu chiến đông bắc Bình Khê-tây An Nhơn, Tiểu đoàn 51 và D10 đặc công tỉnh cùng quân dân Bình Khê tấn công tiêu diệt các chốt dân vệ ở Núi Thơm, Kiên Thành, Vĩnh Lộc (Bình Hoà), Mỹ Yên (Bình An). Hai ngày 7 và 8.3, quân ta bẻ gãy cuộc hành quân giải toả của bọn bảo an, hỗ trợ nhân dân nổi dậy giải phóng 3 xã Bình Hoà, Bình An, Bình Tân. Đêm 9 rạng ngày 10.3, 2 tiểu đoàn 51, 52 và D10 đặc công tỉnh diệt các chốt địch ở cầu Phụ Ngọc và thị trấn An Thái (xã Nhơn Phúc, An Nhơn). Từ 11-16/3, quân dân Bình Khê và tây An Nhơn bẻ gãy các cuộc phản kích của quân chủ lực và bảo an nguỵ; tấn công, loại khỏi vòng chiến đấu 15 trung đội dân vệ, phá 7 khu dồn, giải phóng một mãng liên hoàn 6 xã Bình Hoà, Bình An, Bình Tân (Bình Khê), Nhơn Mỹ, Nhơn Phúc, Nhơn Khánh (An Nhơn); đồng thời đưa lực lượng áp sát các thị trấn Phú Phong, Đập Đá, Bình Định.
Tại Hoài Nhơn, đêm 6 rạng ngày 7.3, trong khi Tiểu đoàn 53 và bộ đội huyện tấn công các chốt địch ở Hoài Thanh, diệt 1 đại đội, 2 trung đội bảo an thì hơn 15.000 quần chúng và du kích xã bao vây tấn công các chốt dân vệ, thanh niên chiến đấu ở Hoài Thanh, Hoài Hảo, Tam Quan; chia cắt đường số 1. Từ 8-16/3, quân dân Hoài Nhơn diệt, bức rút 10 chốt địch, loại 2 đại đội, 15 trung đội bảo an, dân vệ; ghìm chân Trung đoàn 40 Sư 22 nguỵ; giải phóng một số thôn với 6.000 dân.
Tại trọng điểm nam Phù Cát-đông An Nhơn-đông bắc Tuy Phước, ngày 7.3, địch điều 1 đại đội bảo an chốt giữ Núi Đất (nằm giữa 2 xã Cát Nhơn, Phù Cát và Nhơn Phong, An Nhơn) hòng chặn đường tiến công của ta xuống khu Đông. Nhưng rạng sáng 9.3, 2 tiểu đoàn 8 và 50 cùng bộ đội đặc công tỉnh đồng loạt tấn công, tiêu diệt các chốt bảo an, dân vệ ở Núi Đất, Thanh Giang (Nhơn Phong), trụ sở nguỵ quyền xã Nhơn An. Cùng thời gian, bộ đội huyện Phù Cát và du kích xã tấn công địch tại thị trấn An Hành (nay là Ngô Mây) và các xã Cát Trinh, Cát Tường; quân dân An Nhơn tấn công địch ở Lý Nhơn, Phú Thành (Nhơn Thành); quân dân Tuy Phước tấn công địch ở Phước Hưng, Phước Quang, Phước Sơn; biệt động Quy Nhơn tập kích bọn cảnh sát nguỵ ở khu 2. Ngày 13.3, ta lại tấn công cầu Ông Chết, cầu Xi Ta (Nhơn Hưng), cầu Cẩm Vân (Đập Đá); làm chủ đường số 1; uy hiếp chi khu-quận lỵ An Nhơn và thị trấn Đập Đá. Từ 7-16.3.1974, ta giải phóng 5 xã Cát Tường, Cát Nhơn, Cát Thắng (Phù Cát) và Nhơn Ân, Nhơn Phong (An Nhơn).
Tại Phù Mỹ, đêm 6 rạng ngày 7.3, Tiểu đoàn 53 cùng bộ đội huyện tấn công các chốt địch ở Mỹ Hiệp, Mỹ Chánh, Mỹ Cát, Mỹ Tài, loại 2 đại đội bảo an, một số trung đội dân vệ, giải phóng xã Mỹ Chánh và một số thôn của các xã Mỹ Cát, Mỹ Tài. Từ 8-15.3, quân dân Phù Mỹ diệt 5 chốt, bức rút 10 chốt và 6 vị trí trài; loại 13 trung đội bảo an, dân vệ; cắt một số đoạn đường số 1; phá 3 khu dồn, giải phóng 4 xã 20.000 dân.
Ở bắc Phù Cát, Đại đội 2, Công binh huyện phối hợp với du kích xã tấn công các chốt địch ở Cát Hiệp, Cát Hanh, Cát Tài, Cát Minh và Cát Khánh; phá khu dồn Hoà Đại và ấp chiến lược Nhà Tha (Cát Hiệp), đẩy địch xuống đường số 1.
Trong khi quân dân Bình Định đang chiến thắng giòn giã thì quân dân Tây Nguyên giải phóng hoàn toàn Buôn Ma Thuột, tiêu diệt Sư 23 cộng hoà, buộc địch phải rút các lực lượng quân nguỵ ớ bắc Tây Nguyên về “tử thủ” đồng bằng duyên hải Miền Trung, thực hiện co cụm chiến lược để bảo toàn lực lượng và giữ những vùng có tính chất quan trọng sống còn.
Chiến dịch Tây Nguyên đại thắng. Bộ Chính trị chủ trương “giải phóng Miền Nam trong năm 1975”. Trên chiến trường Bình Định, tranh thủ thời cơ thuận lợi, quân dân ta đẩy nhanh nhịp độ tấn công và nổi dậy; táo bạo thọc sâu đánh chiếm một số xã, tạo hành lang và bàn đạp tại Tuy Phước để tiến lên tấn công Quy Nhơn. Tiểu đoàn 50 từ An Nhơn được điều xuống đứng chân ở các xã Phước Thành và Phước Long làm cánh vu hồi phía bắc cho Trung đoàn 93 của tỉnh. Tiểu đoàn 52 đang đứng chân ở tây An Nhơn và Đại đội 3 huyện Phù Cát được điều tăng cường cho Trung đoàn 93; Tiểu đoàn 75 đang ở huyện Hoài Ân được điều xuống bắc Phù Mỹ, tăng cường cho Trung đoàn 92 của tỉnh; huyện Vĩnh Thạnh cũng đưa 1 đại đội bộ đội địa phương xuống tăng cường cho nam Phù Mỹ. D10 đặc công được bố trí đứng ở tây thị trấn Bình Định.
Chấp hành mệnh lệnh co cụm chiến lược của Tổng thống Thiệu, Sư đoàn 22 nguỵ ở đường 19 từ phản kích, giải toả chuyển sang lập các cụm cứ điểm từ Bình Tường lên Đồng Phó (Bình Khê), hình thành lá chắn hòng ngăn chặn các binh đoàn chủ lực của ta theo đường 19 tràn xuống Quy Nhơn. Trung đoàn 40 của Sư 22 nguỵ từ Hoài Nhơn chuyển vào Khánh Hoà cùng Lữ đoàn dù số 3 chốt giữ vùng Khánh Dương-Madrak, nhằm cản bước tiến của quân ta theo đường 21. Địch điều 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 47 và 1 chi đoàn xe bọc theo từ đường 19 về đóng giữ tại tháp Bánh It (xã Phước Lộc, Tuy Phước) để phòng thủ vùng ven Quy Nhơn và trấn an tinh thần quân nguỵ địa phương. Ngày 18.3.1975, bọn cố vấn Mỹ ở Bình Định rút vào Sài Gòn; một số khí tài chiến tranh của địch tại sân bay Gò Quánh và Quy Nhơn cũng được di chuyển. Bọn nguỵ quyền ở Quy Nhơn nháo nhác chuẩn bị “di tản”.
Từ 16.3.1975, quân dân Bình Định đồng loạt tấn công và nổi dậy như triều dâng, thác đổ. Trên đường 19, 2 ngày 16 và 17.3, Sư đoàn 3 tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng một số tiểu đoàn của Trung đoàn 42 và 47 nguỵ; san bằng cụm cứ điểm Đồng Phó, đánh bật địch ra khỏi một loạt chốt vùng lăng Mai Xuân Thưởng-Núi Một (Bình Giang-Bình Tường), hỗ trợ quân dân Bình Định đẩy nhanh nhịp độ tấn công và nổi dậy.
Tại khu chiến trọng điểm, đêm 16.3, Tiểu đoàn 8 và bộ đội huyện Tuy Phước tấn công các chốt địch ở Lộc Ngãi, Tri Thiện (xã Phước Quang); đội công tác và du kích xã tấn công địch ở Phước Long, Phước Hưng, Phước Sơn, Phước Thuận. Đêm 21.3, D20 đặc công, 2 tiểu đoàn 8 và 50 cùng bộ đội huyện tập kích trận địa pháo Trường Úc (xã Phước Nghĩa), đồi Xuân Mỹ, trụ sở xã Phước Hiệp, Chợ Huyện và trụ sở xã Phươc Lộc. Ngày 22 và 23.3, Tiểu đoàn 8 chặn đánh một số đại đội cộng hoà có M113 yểm trợ, từ tháp Bánh It hành quân giải toả Chợ Huyện; Tiểu đoàn 50 cùng bộ đội huyện tấn công các chốt điểm và vị trí trài của địch ở Phước Hoà, Phước Sơn, Phước Thuận; 2 tiểu đoàn 405 và 51 tấn công địch ở Phước Thành, Phước An.
Từ 16-23.3.1975, ở trọng điểm, ta diệt 4 đại đội, 9 trung đội bảo an và dân vệ; giải phóng hoàn toàn 2 xã Phước Quang, Phước Hưng, phần lớn xã Phước Hiệp, nối liền với vùng giải phóng đông An Nhơn-đông Phù Cát, tạo thế chia cắt giữa chi khu quân sự Gò Bồi và chi khu quận lỵ Tuy Phước.
Tại Hoài Nhơn và Phù Mỹ, ta không những làm chủ nhiều đoạn đường số 1, mà còn phá vỡ, cắt vụn thành từng mảnh hệ thống chốt điểm phòng thủ của địch ở thị trấn Tam Quan, Hoài Tân-Bồng Sơn, Đèo Nhông, nam và bắc thị trấn Phù Mỹ. Ở Vân Canh, ta phá sập cầu Canh Hoà, pháo kích chi khu quận lỵ, hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá các khu dồn, bung về làng cũ.
Đến 23.3.1975, quân dân Bình Định giải phóng hoàn toàn 20 xã, mở ra vùng ta làm chủ liên xã và liên huyện; đặc biệt, đã tạo được thế chia cắt giữa đồng bằng Miền Trung và Tây Nguyên, lập được hành lang, bàn đạp cho tổng công kích và nổi dậy giải phóng Quy Nhơn.
Trước tình thế mới rất có lợi cho ta, Thường vụ Khu uỷ khu V chủ trương “giải phóng khu V trong thời gian ngắn nhất”. Quán triệt quyết tâm trên, ngày 24.3.1975, Tỉnh ra lệnh tổng tấn công, tổng khởi nghĩa đánh dỗ toàn bộ quân địch, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng toàn tỉnh. Khẩu hiệu hành động là “Xã giải phóng xã, Huyện giải phóng huyện, Tỉnh giải phóng tỉnh”.
Diễn biến chiến trường khu V hết sức mau lẹ. Ngày 24.3, ta chiếm các thị xã Quảng Ngãi và Tam kỳ; ngày 25.3, ta giải phóng thành phố Huế, đồng thời cắt đứt đường rút chạy của địch vào Đà Nẵng, cả thuỷ và bộ. Ngày 26.3, các binh đoàn quân Giải phóng xốc thẳng vào trung tâm thành phố Đà Nẵng.
Tại Bình Định, trên mặt trận đường 19, Sư đoàn 3 quân ta tấn công mãnh liệt Sư 22 cộng hoà đang co cụm ở Bình Phú và Bình Tường, đồng thời đánh chiếm, chốt giữ cầu Thủ Thiện Hạ (xã Bình Nghi, Bình Khê), nhằm chặn đường tháo chạy của địch về Quy Nhơn.
Hòng giữ phần đất còn lại ở Bình Định, địch điều một số đơn vị của Trung đoàn 47 từ Tháp Bánh It lui về lập tuyến phòng thủ vùng ven và trung tâm thị xã Quy Nhơn; điều một số đơn vị của Trung đoàn 41 từ Bình Khê lui về giữ khu vực Diêu Trì-Cù Mông, tạo thành một dải phòng ngự có chiều sâu, hòng ngăn cản nhịp độ tấn công nhanh của quân ta.
Chấp hành mệnh lệnh của tỉnh, ngày 25.3, các lực lượng vũ trang và 30.000 quần chúng Hoài Nhơn rầm rộ ra quân, dồn dập tấn công, bao vây 65 chốt địch, diệt, bức rút, bức rã 38 chốt. Ngày 26.3, trong khi Tiểu đoàn 53 và quân dân các xã phía nam huyện, bức địch chạy khỏi Hoài Mỹ, Hoài Xuân, Hoài Hương, Hoài Thanh, thì ở phá bắc, lực lượng vũ trang địa phương và hơn 20.000 dân bức địch rút khỏi Hoài Châu, Hoài Hảo, dồn vào chi khu quân sự Tam Quan rồi tháo chạy trong đêm. Thừa thắng, ngày 27.3, quân dân Hoài Nhơn bao vây, công kích mãnh liệt căn cứ Đệ Đức và chi khu quận lỵ Bồng Sơn. Sáng 28.3, toàn bộ quân địch tháo chạy vào Phù Mỹ. Quận lỵ Bồng Sơn hoàn toàn giải phóng vào lúc 10 giờ ngày 28.3.1975.
Tại Phù Mỹ, hai ngày 25 và 26.3, Tiểu đoàn 53 cùng quân dân địa phương đồng loạt tấn công và nổi dậy diệt, bức hàng, bức rã gần 40 chốt điểm địch. Ngày 27.3, trong khi Tiểu đoàn 55 tấn công tiêu diệt, bức rút các chốt địch từ đèo Phủ Cũ vào nam Đèo Nhông thì Tiểu đoàn 75 từ Hoài Ân kéo xuống tấn công dữ dội các chốt địch từ núi Nùng ra nam Đèo Nhông. Cùng thời gian, bộ đội huyện và du kích các xã Mỹ Quang, Mỹ Hiệp, Mỹ Tài đánh vào các chốt địch ở nam quận lỵ. Từ 28-30.3, Trung đoàn 92 và quân dân Phù Mỹ không những chặn đánh quyết liệt, tiêu diệt, làm tan rã phần lớn tàn quân địch từ Hoài Nhơn chạy vào, mà còn quét sạch hệ thống chôt địch từ núi Nùng ra; uy hiếp quận lỵ; áp sát căn cứ Trà Quang; đánh bật một cánh quân địch chạy xuống Tường An hòng ra biển, buộc chúng phải theo suối Bình Trị dồn vào căn cứ Trung đoàn 41 ở Rừng Quán. Sáng 31.3.1975, quân địch ở quận lỵ Phù Mỹ và căn cứ Trà Quang bức chạy, liền sa vào trận địa phục kích của ta tại khu vực Nhà Đá (Mỹ Hiệp, Phù Mỹ) - cầu Phù Ly (Cát Hanh, Phù Cát). Quận lỵ Phù Mỹ hoàn toàn giải phóng lúc 8 giờ ngày 31.3.1975.
Tại Phù Cát, từ 25-30.3, bộ đội huyện và quân dân các xã sở tại dồn dập tấn công địch ở quận lỵ, khu vực Hoà Hội, làm chủ đoạn đường số 1 từ nam cầu Phù Ly vào Hoà Hội; bức hàng bọn dân vệ ở 2 xã Cát Tài và Cát Minh, tấn công mạnh, buộc 1 tiểu đoàn bảo an chốt giữ Đề Gi (Cát Khánh) phải rút chạy vào Quy Nhơn. Trước sức ép tấn công của ta, bọn địch ở Hoà Hội, quận lỵ Phù Cát và Gò Trạm rút vào Gò Quánh; tàn quân địch từ Phù Mỹ chạy vào bị du kích Cát Hanh chặn đánh phải bỏ cả xe, pháo, theo đường sắt trốn vào Gò Quánh. Tối 31.3, Trung đoàn 19 của Sư đoàn 968 quân Giải phóng đánh chiếm sân bay Gò Quánh. Quận lỵ Phù Cát hoàn toàn giải phóng lúc 9 giờ ngày 31.3.1975.
Tại An Nhơn, từ 26-30.3, quân dân trong huyện diệt, bức rút, bức hàng hàng loạt chốt địch ở các xã Nhơn Thành, Nhơn Hậu, Nhơn Hưng, Nhơn Lộc, Nhơn Thọ; áp sát thị trấn quận lỵ. Sáng 31.3, bộ đội huyện và du kích xã Nhơn Thành, thị trấn Đập Đá chiếm lĩnh, làm chủ đoạn đường Gò Găng-Bá Canh; chặn đánh thiệt hại nặng một đoàn xe quân sự địch từ Gò Quánh chạy vào. Ta hoàn toàn làm chủ quận lỵ An Nhơn lúc 12 giờ ngày 31.3.1975.
Tại Bình Khê, ngày 25.3, một đơn vị của Sư đoàn 3 quân giải phóng từ Đồng Phó xuống chiếm lĩnh cầu Thủ Thiện Hạ (Bình Nghi) nhằm cắt đường rút chạy của Sư 22 cộng hoà. Từ 27-30.3, Sư đoàn 3 cùng quân dân địa phương đánh bật địch khỏi Phú Hoà, Phú Xuân (Bình Phú) và Thủ Thiện (Bình Nghi); đồng thời thọc sâu đánh chiếm căn cứ Sư 22 nguỵ tại An Sơn (PhướcAn, Tuy Phước), hỗ trợ quân dân địa phương công kích thị xã Quy Nhơn. Ngày 31.3, trong khi Sư đoàn 3 đánh chiến căn cứ Lai Nghi (Bình Nghi), thì Trung đoàn 95 quân Giải phóng từ Tây Nguyên tràn xuống giáng đòn sấm sét vào Trung đoàn 42 nguỵ từ lăng Mai Xuân Thưởng đến Phú Phong. Quân ta chiếm quận lỵ Bình Khê lúc 10 giờ ngày 31.3.1975.
Tại Vân Canh, từ 25-31.3, bộ đội huyện cùng du kích xã tấn công địch trên đường Gò Sau, pháo kích quận lỵ, vây hãm chốt Hòn Lập, bức hàng 1 đại đội địch, rối chiếm quận lỵ, truy bắt bọn ác ôn.
Tại Tuy Phước, từ 25-27.3, Tiểu đoàn 405 của ta liên tục pháo kích hậu cứ của Sư 22 cộng hoà ở Phước Thành và Phước An; Tiểu đoàn 51 và Tiểu đoàn 19 công binh đánh chiếm một số chốt địch ở các xã Phước Thành và Phước Long, hình thành thế vu hồi phía tây cho thế trận tấn công thị xã Quy Nhơn. Trong khi đó, từ ngày 25-28.3, các tiểu đoàn 8, 50, 52 của Trung đoàn 93 bộ đội tỉnh cùng quân dân Tuy Phước tiêu diệt các chốt địch ở các xã Phước Nghĩa, Phước Sơn, Phước Hoà, Phước Lộc, bao vây chặt chi khu quân sự Gò Bồi và chi khu quận lỵ. Trước sức ép của ta, bọn địch ở chi khu Gò Bồi tháo chạy, tuyến phòng thủ của địch ở đông bắc Quy Nhơn bị chọc thủng. Sau khi đánh bật địch ra khỏi các chốt vòng ngoài, quân dân Tuy Phước giải phóng quận lỵ lúc 12 giờ 30 ngày 31.3.1975.
Tại Quy Nhơn, tối 29.3, biệt động thị xã và lực lượng an ninh vũ trang tỉnh tập kích bọn cảnh sát, nghĩa quân địch ở khu 2, khu 5; Trung đoàn 93 và các đơn vị phối thuộc đánh chiếm các thôn Tây Định, Nhơn Ân, Quảng Vân (nay thuộc phường Nhơn Bình) và trụ vững tại địa bàn ven thị xã. Đến 12 giờ 30 ngày 31.3, Trung đoàn 93 đánh chiếm vùng Chợ Dinh, khu V và cửa mở Núi Một-Cầu Đôi, sau đó chia làm nhiều cánh xốc thẳng vào các vị trí quan trọng của địch trong nội thị. Tiểu đoàn 52 từ Chợ Dinh tiến lên chiếm cầu Sông Ngang, khoá chặt đường tháo chạy của địch từ Phú Tài về Quy Nhơn, sau đó Tiểu đoàn 51 từ Phước Long xuống thay Tiểu đoàn 52 kéo xuống đường Đống Đa làm lực lượng dự bị. Tiểu đoàn 50 cùng 2 đơn vị đặc công D10, D30 và Đại đội 3 huyện Phù Cát theo đường Nguyễn Thái Học thọc thẳng xuống khu vực bến xe, công viên, đánh địch từ đầu sân bay Quy Nhơn đến căn cứ Tiểu khu Bình Định. Tiểu đoàn 8 theo đường Gia Long (nay là Trần Hưng Đạo) tràn xuống khu 4 đến khu vực Nhà thờ Nhọn, trụ lại bao vây, tiêu diệt bọn địch của Sư 22 nguỵ từ hậu cứ An Sơn tháo chạy về Quy Nhơn cụm lại. Tiểu đoàn 73 trợ chiến nhanh chóng chiếm Núi Một, dùng pháo thu được của địch kịp thời bắn chi viện các mũi bộ binh đang thọc sâu đánh địch, đồng thời khống chế địch ở sân bay, quân cảng và bọn hải quân.
Phối hợp nhịp nhàng với các cánh quân của Trung đoàn 93, 3 tiểu đoàn: Đặc công 405, Công binh 19 và Bộ binh 51 đánh tràn qua khu vực Đá Đen, đài Viễn thông, Gành Ráng. 3 giờ chiểu 31.3, Đội biệt động Quy Nhơn xuất kích, bất ngờ đánh chiếm ty Cảnh sát nguỵ, nhà lao trung tâm, giải thoát hơn 1.000 đồng chí, đồng bào ta bị địch giam giữ tại đây; đến 17 giờ chiếm dinh Tỉnh trưởng (nay là nhà khách Uỷ ban Nhân dân tỉnh). Cùng thời gian, Tiểu đoàn Đặc công nước 598 chiếm Mũi Tấn và phối hợp với Tiểu đoàn 8, du kích mật phường Trung Cảng tiêu diệt, làm tan rã toàn bộ quân địch, đánh chiếm quân cảng và thương cảng Quy Nhơn lúc 18 giờ.
Khi quân ta vừa chiếm được một số cửa mở thì Thị uỷ Quy Nhơn lập tức phát động nhân dân thị xã nổi dậy giành quyển làm chủ nhiều nơi trong nội thị. Hơn 1.000 quần chúng khu 3 chiếm trụ sở khu và các kho gạo của địch. Gần 4.000 đồng bào khu 5 chiếm đồn Cảnh sát Bạch Đằng. Ngót 2.000 dân khu 1 vận động 2 trung đội dân vệ hỗ trợ nhân dân và quân Giải phóng đánh chiếm quân cảng và thương cảng Quy Nhơn. Tại khu 2, hơn 3.000 quần chúng chiếm trụ sở khu, hỗ trợ Biệt động thị xã chiếm dinh Tỉnh trưởng, nhà lao và ty Công an nguỵ.
20 giờ ngày 31.3.1975, Đội Biệt động Quy Nhơn bắt liên lạc và phối hợp với Tiểu đoàn 50, D30 và D20 đặc công đánh chiếm và cắm cờ Giải phóng trên tiền sảnh Toà Hành chính nguỵ quyền tỉnh và Trung tâm Tiểu khu Bình Định. 8 giờ tối 31.3.1975 là thời điểm giải phóng hoàn toàn thị xã Quy Nhơn (có hơn 200.000 dân) và toàn tỉnh Bình Định (với hơn 900.000 dân).
Đến 24 giờ ngày 31.3.1975, toàn bộ hệ thống đồn chốt, căn cứ quân sự, cơ quan địch ở nội thị và ngoại vi Quy Nhơn đều bị quân dân ta chiếm lĩnh. Quân dân ta vừa ráo riết truy quét tàn quân địch, vừa khẩn trương triển khai lực lượng sẵn sàng tiêu diệt bọn tàn quân của Sư 22 cộng hoà, Thiết đoàn 14, 2 tiểu đoàn pháo binh, một số tiểu đoàn bảo an, tổng cộng khoảng 6.000 tên đang liều mạng mở đường máu tràn vào Quy Nhơn hòng thoát ra biển.
Đến 12 giờ ngày 1.4.1975, trận đánh bắt đầu. Do một nhịp cầu Sông Ngang bị ta phá nên quân địch buộc phải theo đường Lam Sơn, lọt vào trận địa phục kích của quân ta. Trung đoàn 93 và các đơn vị phối thuộc khép chặt vòng vây, đánh đằng trước, chặn phía sau, thọc ngang sườn, băm nát đội hình địch dày đặc hơn 300 xe quân sự. Quân ta dũng mãnh xung phong chiếm xe tăng địch, quay nòng súng nã đạn vào bọn bộ binh, bắn cháy hàng chục xe địch. Cùng lúc, hoả lực của Tiểu đoàn trợ chiến 73 và các tiểu đoàn bộ binh của ta dội đạn tới tấp, chính xác vào đoàn tàu của hải quân địch định lao vào bờ cứu vớt đồng bọn. 13 tàu xuồng địch đang đổ bộ bị bắn chìm. Đến 16 giờ ngày 1.4.1975 thì trận đánh kết thúc. Số phận của đơn vị nguỵ quân từng mang danh “Sư đoàn trấn sơn, bình hải” cũng kết thúc.
Từ 31.3 đến 2.4.1975, nhân dân Quy Nhơn phối hợp với các lực lượng vũ trang Giải phóng ra sức truy kích, bao vây, gọi hàng và thu vũ khí hàng nghìn tàn quân địch. Hơn 1.000 công nhân nhà ga, bến cảng và nhà máy điện nổi dậy chiếm lĩnh các xí nghiệp, chống địch cướp phá máy móc.
Suốt 28 ngày đêm (từ 3 đến 31.3.1975) dồn dập tấn công, liên tục nổi dậy, quân dân Bình Định đã đánh sụp toàn bộ nguỵ quyền từ xã lên tỉnh; tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân nguỵ ở địa phương; chiếm lĩnh hầu như nguyên vẹn các thị trấn, quận lỵ và thị xã, cùng các căn cứ quân sự, kho tàng, công trình công cộng.
Ngay sau khi tỉnh nhà hoàn toàn giải phóng, quân dân Bình Định tích cực, khẩn trương huy động nhân, tài, vật lực phục vụ Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn Miền Nam.