Bầy gà nhỏ ở phố
* Tạp bút của TRẦN BĂNG KHUÊ
Không phải như ở quê, “vườn rộng rào thưa khó đuổi gà”. Nhà ở phố, người ở phố đôi lúc cũng thèm chút thoáng đạt thanh cảnh kiểu có nhà, có cây trái, rau quả quanh mảnh vườn nho nhỏ cũng chỉ thầm mộng rồi nằm mơ. Nhà ở phố, người ở phố có khi thèm một đêm trăng thanh gió mát cũng ngơ ngẩn thương nhớ tuổi hoa xưa, thời đèn dầu tối tăm chưa có ánh sáng của đèn điện. Nhà ở phố, đất chật người đông, nhiều bận lại ngóng trông ngơi bớt công việc sinh nhai thường nhật, để trở về với làng quê gũi gần giản dị dăm ba ngày.
Tranh của họa sĩ TRƯƠNG ĐÌNH DUNG
Nhà ở phố, nghe câu “vườn rộng rào thưa khó đuổi gà” sao xa lạ, ngạc nhiên quá chừng. Chẳng phải, cố tình mượn ý tứ cụ Tam Nguyên Yên Đổ để nói chuyện “khách đến nhà”. Chỉ vì, nhìn thấy bầy gà dăm ba con của mẹ, nuôi nhốt, thả rông chạy quanh hẻm nhỏ, lang thang bên mảnh đất hoang bên cạnh mà mường tượng chốn quê kiểng đâu đó ngoài miền Trung, hay xứ Bắc. Bầy gà nhỏ của mẹ, sáng sớm được thả ra khỏi chiếc lồng sắt, dắt díu nhau qua vườn hoang, nấp dưới đám rau lang ven đường mẹ trồng, đợi xế trưa nghe tiếng mẹ gọi lại chân Bắc chân Nam băng về nhà, líu ríu chờ ăn. Chiều tối, bóng nắng rời khỏi ngọn cây mới trở về, tự rúc vào chiếc lồng sắt ngoan ngoãn, ngủ yên giấc qua đêm.
Mới dăm tháng thôi, bầy gà nhỏ của mẹ trổ mã, trổ giò, các anh trống cứng cựa, để ý một chút là đã có thể nghe được tiếng đập cánh mạnh mẽ, tiếng gáy vang buổi sớm. Một chị mái tròn quay. Nhiều lần mẹ vui chuyện kể về chúng, “mẹ ghé thăm đám rau lang bên đường, chúng ùa tới dưới chân mẹ, tíu tít thấy mà thương”. Mắt mẹ lấp lánh. Mắt con gái cũng lấp lánh, thì thầm với mẹ: “Chỉ nuôi thôi, đừng giết thịt. Thương lắm”.
Đời người vốn đã ngắn. Đời con chó, con mèo, con gà còn ít ỏi hơn. Đôi khi chạnh lòng. Thương đời người chưa hết, còn nghĩ ngợi thương thêm đời chúng nó nữa. Nhà ở phố, làm gì có “vườn rộng rào thưa”. Bầy gà nhỏ của mẹ, lớn rồi. Tưởng chúng cứ thế quẩn quanh thêm dăm ba tháng nữa. Ấy vậy, mới chiều tối hôm qua đây thôi, mẹ hốt hoảng khi thấy bầy gà nhỏ chỉ có một con trở về. Cả nhà dáo dác đi tìm. Ba ghé qua vườn hoang, thấy trong bụi cỏ cái xác gà lông màu đất đỏ đã cứng. Còn những con khác thì mất tích chẳng thể nhìn ra bóng dáng đâu nữa. Hẳn đã chết bờ chết bụi. Hẳn đã bị con rắn con chuột hôi ăn mất. Hẳn là đã hóa kiếp về trời thành khói trắng chênh vênh.
Nhà ở phố, thi thoảng vẫn thấy nỗi buồn trèo lên tận mây xanh nhìn xuống. Chẳng hạn ngay sớm hôm nay, len lén ra cổng, thấy mẹ thả con gà duy nhất còn lại nửa buổi, rồi nhốt mà chạnh lòng. Chiều tối thấy con gà duy nhất im lìm rộng rãi một mình không cần phải chen chúc cũng xót xa. Nỗi cô đơn đâu chỉ bấu víu vào từng nóc nhà, từng thân phận con người. Nó rất vui được phết một ít sắc màu lên chị gà mái còn lại đang nằm trong chiếc lồng sắt. Bởi vậy, mới biết nỗi cô đơn vô tận đến khôn cùng. Nỗi cô đơn này gặm nhấm nỗi cô đơn kia, mênh mông buồn như biển đời chênh vênh vậy.
Nhà ở phố. Người ở phố. Và cả những con gà ở phố có gì đó khác lắm?
Bất chợt nghe tiếng gà gáy vang buổi trưa, mắt cay cay. Gió thổi bên tai. Lòng chạnh lòng nhớ ra có chị gà mái buồn lủi thủi một mình mổ lóc chóc những hạt cơm trắng - trong chiếc lồng sắt để ở góc sân chiều về. Bẵng đi dăm ba hôm, rời nhà lang bạt, nghe mẹ thì thào nghèn nghẹn: “Chị gà cuối cùng của mẹ đã bị con thú dữ nào đó bắt mất”. Nước mắt rơi theo mẹ, trong tiếng nấc qua điện thoại. Biết mình thương những cành cây ngọn cỏ, thương cả đôi chân gà bé nhỏ trước mảnh vườn hoang lạ bên kia đường mỗi lần nhìn thấy mẹ lại chạy theo quấn quýt. Nhà ở phố sao cứ lặng lẽ buồn buồn rồi đọng vệt lại trong khoé mắt đầy vết chân chim một đời khổ đau của mẹ tuổi xế chiều đến vậy? Nhà ở phố, gà ở phố sao vẫn có thú hoang nuốt mồi rình rập chờ đợi trong bóng tối?