H
Hát Bài chòi
Hát Bài chòi, nay được nâng cấp thành Dân ca kịch Bài chòi, nguyên gốc từ trò chơi Đánh bài chòi mà ra. (Xem vần T, mục Trò chơi dân gian, tiểu mục Trò chơi Đánh bài chòi).
Từ cách hô trong trò chơi Đánh bài chòi, các nghệ sĩ dân gian cải tiến, nâng cấp thành những làn điệu hát Bài chòi trên sàn diễn, lúc đầu là những bài hát đơn lẽ, về sau được sáng tác thành những vở diễn như hát Bội hay ca Cải lương.
Hát Bả trạo
Các làng ven biển Bình Định thường có tục lệ cúng thần Nam Hải (Cá Ông) hai lần trong năm: tế Xuân vào tháng 2, tế Thu vào tháng 8 âm lịch. Trong lễ hội cúng thần Nam Hải, còn gọi là Cầu ngư, sau nghi lễ tế thần, thường tổ chức hát Bả trạo, vừa là nghi thức tế lễ, vừa là hoạt động nghệ thuật.
Bả trạo là một hoạt cảnh múa hát thể hiện những sinh hoạt lao động của ngư dân như chèo thuyền, kéo lưới, hoặc đặc tả cảnh đưa rước linh hồn các “Đức Ông” cùng những người chết sông, chết biển về nơi yên nghỉ. Kịch bản hát múa Bả trạo của các làng chài Bình Định tuy mỗi nơi có khác đôi chỗ, nhưng về cơ bản vẫn là kịch bản Bả trạo của cụ Tú Nguyễn Diêu, người làng Nhơn Ân, xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước. Xã Phước Thuận còn lưu giữ nghệ thuật hát múa Bả trạo có từ thế kỷ XVII với nhiều dị bản mang bóng dáng của một thể loại hát Bội cổ. Các vở tuồng hát múa Bả trạo còn lưu truyền ở xã Phước Thuận có dùng các làn điệu hát nam xuân, nam ai, nói lối, ngâm xướng, hò bài chòi...Hát nam xuân thể hiện tâm trạng vui tươi, phấn chấn như có trống thúc bên chân, còn hát nam ai thì diễn tả tâm trạng sầu thảm, lời hát ướt đẫm nước mắt.
Một điểm dễ nhận thấy sự khác biệt giữa hát Bả trạo và hát Bội Bình Định là hát Bả trạo đòi hỏi tất cả các nghệ nhân biểu diễn phải cùng hát rập ràng theo tiếng gõ sanh của người điều khiển. Động tác hát Bội truyền thống được cách điệu hóa mang tính nghệ thuật cao, còn động tác trong hát múa Bả trạo mang nặng tính thực hành, gắn với thực tế cuộc sống hơn như động tác chèo thuyền ở hát ội chỉ là cách điệu điệu bộ, còn ở hát Bả trạo thì chèo thuyền thật.
Thời lượng trình diễn một vở hát múa Bả trạo là hơn một giờ. Ngoài ý nghĩa ngư dân bày tỏ tôn vinh công đức, tỏ lòng thương tiếc đối với Nam Hải Thần ngư (cá Ông), hát múa Bả trạo còn là sự bày tỏ tâm tư, nguyện vọng của công đồng cư dân miền biển mong sao có được một cuộc sống an lành, no đủ trước những nguy nan, thách thức của biển cả mênh mông.
Hát Bả trạo gồm nhiều người, diễn viên là những người thợ đánh bắt cá và thợ bạn, đứng trong tư thế như đang đi trên biển. Đội Hát Bả trạo thường có 24 người, gồm Tổng Lái, Tổng Sanh (Tổng Mũi), Tổng Thương, Tổng Cờ, 2 đầu hổ, 2 lồng đèn, 16 Trạo phu; ngoài ra, còn có 3 nhạc công. Tùy từng địa phương mà số diễn viên có thể thay đổi, thêm hay bớt ít nhiều.
Nội dung bài hát Bả trạo thường được kết cấu 4 chương: Ra khơi, Đánh bắt, Bão tố và Khải hoàn.
Khi Chủ tế tiến hành nghi lễ, diễn viên Bả trạo trang phục đúng nghi thức, đứng hầu hai bên. Trước khi bắt đầu diễn xướng, toàn đội vào lạy thần Nam Hải.
Khi biểu diễn, đội Bả trạo xếp đội hình như một chiếc thuyền; trên tay các con Trạo (Trạo phu) là những dầm chèo được sơn phết đủ màu. Tổng sanh dẫn hai hàng Trạo vào đứng chỉnh tề hai bên. Hai phách nhất quỳ dâng dùi sanh lên cho Tổng sanh. Tổng sanh lạy thần rồi gõ tiếng thứ nhất, Trạo tách hàng; gõ tiếng thứ hai, Trạo quỳ; gõ tiếng thứ ba, Trạo lạy: các Trạo cúi xuống và ngẩng đầu lên, quỳ lạy theo nhịp sanh chỉ dẫn của Tổng sanh; gõ tiếng thứ tư, Trạo làm động tác tượng trưng cởi áo bỏ ra phía ngoài; gõ tiếng thứ năm, Trạo đưa tay vào trong cầm chèo đứng dậy và bắt đầu hát.
Tổng lái giáo đầu (bả trạo)
“Nhứt nhơn, nhứt trạo đăng chúc cho huy hoàng. Y tiết thứ bài, can khai thuyền hầu âm vị “
Tổng sanh nói lối: “Mừng cho hồn yên giấc, về đến cõi lạc bang, Nơi nơi cung phụng đàng hoàng, chốn chốn thảy đều ghi tạc (bả trạo). Vía thanh minh cô nơi xiêu lạc, Nên mồ hoang cỏ rậm không ai. Nơi tiền đường cung thỉnh các ngài Về xin hưởng tương, dưa mặn lạt (bả trạo). Cũng có kẻ đắm thuyền xiêu lạc, Cũng có người tự vận oan gia... Nên thuyền nầy trách nhiệm bao la, Chèo đến rước những người trôi nổi (quợ)”. Hát nam xuân ”Trôi nổi tìm rước về văn miếu, Vái Phật, Trời hòa điệu hộ sanh (trạo bắt bang). Hoàn, quá thổ thanh minh, Hích, trạc chốn oai binh, Giang, thương khinh phong ấn, Cổ, động lôi oanh (2 lần)”.
Tổng sanh hát nam: “Lôi oanh linh thiêng, hiển hách, Tấm lòng thành vô địch nhân từ ”.
Tổng lái hát nam: “Rày mừng lạc nghiệp, an cư, Trời yên, biển lặng, buồm từ lộng khơi (trạo bắt bang) Thần, diêu tích bá dương, Tấn, nhai lợi Hải vương, Â u ca bài thủy nhạc, Cổ động lôi khương (2 lần)”.
Tổng sanh hát nam: “Lôi khương lên đường hội ngộ, Đối lạc hà cổ võ tề phi” Tổng lái hát nam: “Dong thuyên, thuyền đã ra đi, Xanh xanh thức nước, sâm si da trời ” (trạo bắt bang) “ Quy, trao phát thỉnh ca, Thỉnh tế tại giang hà, Quanh, trung hữu thủy trục, Cổ, võ hát trạo ca (2 lần)” .
Tổng sanh hát nam: “Trạo ca cho ta tấn bộ, Dân thái bình, cổ võ âu ca”
Tổng lái hát nam: “Nhẹ tuôn mấy dặm ngân hà, Khắc phơi chè quế, khắc hòa khương lang”.
Tổng lái kêu: “Bả trạo trông bầu trời”.
Tổng sanh bắt bài: “A di đà Phật bồ đề, Xưa kia đã có bồ để độ sanh, Vậy đem nguyên lực thi hành Mở ra một cõi quang minh ly kỳ... Gọi là cực lạc Tây phương, Có thành bày lớp, có cây bày hàng. Nghênh ngang cúc ngọc, lầu vàng, Có thềm bách bảo, có đàng thất trâm... Lưu ly có đất sáng ngời, Ma ni có nước trong vời chảy quanh, Nhạc trời có vận thanh thanh, Hoa trời có vẻ xanh xanh rước hoài. Có chim ca hát hôm mai, Có ao bát đúc, có đài cửu niên, Trang nghiêm vô lượng, vô biên, Kể sao cho xiết cái niềm an vui. Cảnh kia đã đẹp mắt rồi, Ở trong lại có các ngôi thánh thần. Quan âm thế chỉ tiền hiền, Cùng lòng mẫu thế, cùng duyên độ người. Cùng nhau chung ở một nơi, Theo hầu Bảo Ngự chẳng rời hai bên. Di đà là Phật bề trên, Khiến hai ngài phải giúp nên duyên lành”.
Tổng lái kêu: “Ngân nga rồi chập tiếng trạo đã an, Thuyền mở máy, khoan hò cho êm rập”.
Tổng sanh mái ngơi: “Cúi xin Phật đoái thương tình, Cầu hồn ra khỏi u linh ba đàng. Cúi xin ba ngọn đào quang Sai hồn theo giấc mơ màng chiêm bao. Cúi xin trong biển ba đào Dắt hồn ra khỏi lúc vào trần mê. Cúi xin ân Phật đề huề Thả tay mà dắt hồn vể đến nơi. Cúi xin ân Phật rước mời, Nắm tay mà dắt hồn chơi liên trì. Cúi xin tả hữu ti tùy Mấy ngôi đại sĩ cũng thì ban ơn“.
Tổng lái kêu: “Bả trạo Hai bên đối phách hò đậm cho đều, Nghe cái mà theo đã khoan lại nhặt “.
Tổng sanh hô ngặt: ”Nguyện cho hồn đặng an lành, Thôi căn phát đạt, tội tình tiêu tan. Nguyện hồn về cõi tịch quang Mau mau thóat khỏi trần gian cho rồi. Nguyện hồn tinh tấn hẳn hòi, Trồng hoa bát nhã, nhỡ hồi vô minh. Nguyện hồn thỉnh pháp văn kinh Mở lòng sớm tỏ tánh linh chơn thường. Nguyện hồn chơi khắp bốn phương Hái bông mà để cùng giường Như Lai. Nguyện hồn tỉnh dưỡng thảnh thơi, Vào trong cửu phẩm, ra ngoài tứ linh. Bữa nay đại chúng đồng thanh Nguyện hồn về đặng siêu sanh vĩ đời“.
Tổng lái kêu: “Đêm khuya chèo mệt mỏi, Tổng thương, Tổng thương khá về mũi quăng neo“
Tổng thương nói: ”Như tôi vâng lời chú Tổng, đáo tới mũi thuyền, Mở khóa ra tay phải cầm neo, Giây quăng xuống, gác mái chèo tạm nghỉ. Bổn phận tôi phải giữ gìn cho kỹ, Sang tai quay quật cả làng, Nắm mối dây thừng đạp cho đàng hoàng, Tay khóa lại xuống thưa chú Tổng“.
Tiếp theo là Tổng lái, Tổng thương, Tổng cờ, hai lồng đèn lên điện múa dâng hương.
Vì nghề đánh cá biển là nghề sông nước thường hay gặp tai nạn, đau xót nhất là phần lớn những người bị nạn đều không có mồ yên, mả đẹp, nên nội dung bài hát Bả trạo mang đậm tính nhân văn sâu sắc.
Hát Bội
Theo nhìều nhà nghiên cứu, hát Bội (hát Bộ) Bình Định là do Đào Duy Từ biến chế lối hát chèo ở Miền Bắc và lối hát ở địa phương bắt chước người Chămpa, mà tạo ra. Rồi mỗi đời mỗi phong phú thêm. Đến đời Tự Đức, nhờ Đào Tấn mà hát Bội Bịnh Định lên đến tuyệt đỉnh nghệ thuật cũng như văn chương; những đào kép hát nổi danh đều được phong phẩm hàm. (Xem vần N, mục Nghệ thuật hát Bội, trang 533)
Hát Hò giã gạo
Tại các tỉnh Nam, Ngãi, Bình, Phú, đêm giã gạo nào cũng có hát Hò giã gạo.
Trên sân chủ nhà, xếp ngay hàng, thẳng lối hàng chục cối giã gạo. Hai bên dãy cối, trai một bên, gái một bên, đối diện nhau. Muốn có gạo đẹp, chủ nhà bỏ một nắm lá tre, lá trúc vào cối giã để hột gạo trắng xanh bắt mắt.
Để quên đi sự mệt nhọc trong lúc giã gạo, những người giã gạo thường hát hò đối đáp nhau. Câu hát lấy từ bổn cũ, không có sự ứng khẩu đối đáp như hát kết. Tiếng hát trầm bổng, đệm vào là tiếng chày giã gạo dìu dặt suốt đêm.
Theo thường lệ, khi tiếng hát, tiếng hò, tiếng chày giã gạo vang lên là dân trong làng cả người lớn, trẻ em, đàn ông, đàn bà, thanh niên nam nữ... lục tục kéo đến, lớp ngoài, lớp trong ngồi kín cả sân, nhất là những đêm trăng sáng đẹp trời. Người giã gạo cố hát cho hay, người đến xem đệm vào những điệu “ hò hê “, hò vang hưởng ứng. Càng về khuya, tiếng hát càng hay, tiếng hò phụ họa càng giòn, tiếng chày giã gạo càng vang xa...
Trong những đêm Hò giã gạo, người hát ai nấy đều lấy vui làm chính, nên những câu hát hò thường có nội dung vui tươi, lành mạnh, cũng có những câu dí dỏm, thanh tao.
Đáng tiếc là ngày nay, giã gạo bằng cồi, bằng chày không còn nữa nên hát Hò giã gạo cũng bị mai một.
Hát Huê tình
Hát Huê tình cũng giống như hát Hò giã gạo, cũng trai gái đối đáp nhau; chỉ khác ở chỗ giọng hát dài và chậm và khi hát không có người “ hò hê ”. Hát huê tình thường dùng trong lúc lao động sản xuất như tát nước, nhổ cỏ, nhổ đậu, nhổ mạ, hái dâu...
Nội dung câu hát Huê tình mang tính trử tình cao, thường là những câu tự tình, những câu tâm sự, khi thì thề thốt, khi thì thương nhớ, chờ mong, khi thì trách móc, tủi hờn, khi thì buồn duyên, trách phận. Lời thường bi ai, giọng thường não nuột. Cũng như hát Hò, Bài chòi, hát Huê tình có lắm câu văn chương hoa mỹ, chải chuốt, ý tứ thâm thúy.
Hát Hò, ai hát cũng được, nhưng hát Huê tình phải là người có giọng tốt, hơi dài.
Ngày nay, cũng như hát Hò, hát Kết, hát Huê tình hầu như không còn nữa.
Hát Kết
Những đêm giã gạo, che mía, mài mì... nhân dân Bình Định thưòng dùng lối hát người hỏi qua, kẻ đáp lại, gọi là hát Kết. Điểm vào những câu hát là giọng hò “hò hê… hê hò hê” của những người tham gia cuộc chơi. Sự hấp dẫn của hát Kết là chất lượng nội dung những lời hỏi qua, đáp lại và giọng hát hay của đôi bên nam nữ.
Gọi là hát Kết vì cuộc chơi thường dẫn đến chuyện kết nghĩa vợ chồng. Có thể coi hát Kết của nhân dân Bình Định như hát giao duyên ở Miền Bắc.
Câu hát dùng để bày tỏ tâm tư, tình cảm mang chất trử tình, hay dùng để đố nhau về kiến thức khoa học, lịch sử giàu trí tuệ. Tùy theo sự thõa thuận của đôi bên, bên nam hoặc bên nữ xướng trước, rồi bên bạn đáp lại. Giọng cất lên ơ..ơ..ơ… rồi tiếp theo là hát làn điệu Bài chòi và dùng cách nói lối của hát Bội đệm vào để dẫn giải. Từng câu, từng đoạn hát rất linh hoạt, cao thấp, khoan nhặt, buồn vui, giận hờn, oán trách...tùy theo nội dung đối đáp.
Những câu trai gái đối đáp nhau, hoặc theo nguyên văn những câu dân ca do các tác giả khuyết danh đặt sẵn; hoặc người hát ứng khẩu, tự sáng tác tại chỗ; hoặc người hát lượm lặt, cải biên các câu hát cũ tạo thành câu hát mới phù hợp với bối cảnh cuộc chơi. Dù là ứng khẩu hay cải biên, nhưng các câu hát Kết đối đáp rất chặt chẽ, sít sao, nhiều câu văn chương chải chuốt, bóng bẩy, tình ý dồi dào, sâu sắc.
Lệ thường, trong đêm Hát Kết, bên gái hát trước. khích bên trai vào cuộc. Biết rằng có người hát hay đang đứng bên ngoài, bên gái xướng: ”Vô đây, ớ bậu vô đây, trầu têm miếng chả đã xây trên bàn. Tội chi mà đứng ngoài đàng, sương sa, rủi nhiễm thương hàn, ai nuôi”...Nếu bên trai chưa có người vào cầm chày hát đáp thì bên gái lại hát khích lần nữa: ”Tới đây chẳng hát thì hò, Đâu phải con cò ngóng cổ mà nghe?”.
Nghe đến câu nầy, lòng tự ái bị chạm, bên trai liền có người vào cầm chày, hát đáp lại ngay: ”Ngóng cổ nghe, vì e em bậu, đụng phải ông chồng có máu xấu hay ghen...” Bên gái thanh minh: nếu đã có chồng thì hát: ”Ghen chẳng ghen, chồng em, em biết. Ai có gan anh hùng, thì cứ việc vô đây...”; còn nếu chưa chồng thì hát: ”Ai dám ghen nào. Em còn trinh tiết. Thuyền đã đến động Đào, theo dòng biếc chèo vô”.Bên trai đáp lại: ”Bước vô đây, tay chày lỏng cối, rủi anh yêu nàng, biết lối nào ra...”. Bên gái mạnh dạn trả lời: ”Lối nào ra, đôi ta sẽ liệu. Kìa hoa hải đường hàm tiếu trước sân. Mỗi năm được mấy mùa xuân, mỗi ngày được mấy giờ dần hỡi ai”. Bên trai trả lời: “Giờ dần đợi đến ngày mai, mời sang đầu tuất nghiêng tai thì thầm. Trên đời dễ mấy tri âm, biết ai đồng điệu, đồng tâm mà chào“....
Như nắng hạn gặp mưa rào, đôi bên trai, gái đua sức, đua tài hỏi đâu, đáp đó; cặp nầy mỏi, cặp khác vào thay; giã hết lúa rồi lại đổ trấu vô giã tiếp, có khi cuộc hát hò kéo dài đến gà gáy sáng....
Cặp khác vào, bên gái khởi xướng: ”Hữu duyên, em gặp anh đây, Hò qua, hát lại đắm say giọng tình. Đêm nay, gió mát trăng thanh, Giã xong cối gạo, hỏi mình theo ta”. Bên trai hát đáp: ”Thương em, anh cũng muốn theo, sợ truông cát nóng, sợ đèo đá dăm…” (vì bên gái ở phía bắc huỵện Phù Cát có ba đèo, bốn động). Bên gái phân trần: ”Đá dăm em lượm sạch rồi, còn truông cát nóng, anh bồi bùn non”. Bên trai giải bày: ”Bùn non em đánh sang ao, tan trong nước lã, làm sao anh tìm. Hay là đợi đến ra giêng, mùa màng gặt hết, anh đi tìm bùn non”.Bên gái tha thiết: ”Anh đừng làm cho đó xa đây, như con chèo bẻo xa cây măng vòi”. Bên trai chưa kịp hát đáp thì bên gái hát thêm: ”Chim xa bầy thương cây, nhớ cội, người xa người tội lắm ai ơi! Chẳng thà không gặp thì thôi, gặp rồi mỗi đứa một nơi sao đành”. Nghe vậy, bên trai liền tỏ lời ong bướm lẳng lơ; ” Thấy em còn lịu địu, anh không nõ dứt tình. Chờ khi thanh vắng một mình, gặp em anh sẽ đáp tình bướm ong”. Bên gái thẳng thắn cự tuyệt: ”Nữ nhi quý nhất chữ trinh, không còn trong sạch, chữ tình bỏ đi”.
Hát Kết có 2 làn điệu: hát ngơi là hát luôn một hơi dài, chỉ thả hò ở cuối câu, nghe rất rõ lời và hát nhịp một là thả hò ở giữa câu, nghe hay nhưng ít rõ lời. Về cách hát kết, có 2 cách: hát xuôi là hát phụ họa, hát tỏ tình như hát hò giã gạo và hát ngược (hát ghềnh, hát trách) là hát đố nhau, hát nêu vấn đề để bên kia ứng khẩu đáp lại, rất hấp dẫn người nghe.
Ở tỉnh Bình Định, ông Nguyễn Oanh (1895-1950), tên thường gọi là bác Tư Oanh, quê làng An Lương, xã Mỹ Chánh, huyện Phù Mỹ là người nổi tiếng sáng tác những bài hát Kết hấp dẫn, được nhiều người học thuộc. Ông hát kết cũng rất hay và có biệt tài ứng khẩu ngay tại cuộc chơi nên đám giã gạo, che mía nào có bác Tư Oanh đến tham gia là người đi xem rất đông như đi xem biểu diễn nghệ thuật. Trong dân gian có câu: ”An Lương có bác Tư Oanh, ông Tổ hát kết lừng danh một thời”. Ngoài ra, ở Phù Mỹ, Phù Cát cũng có một số người nổi danh trong làng hát Kết: ”Mười Nghi, Ba Thắng, Dư Ong, và bác Tám Hiệu...cũng trong một nghề...”
Hiện nay, giã gạo, che mía thủ công không còn nữa nên hHHHhát Kết cũng bị mai một. Đó là điều đáng tiếc. Thiết nghĩ ngành văn hoá nên có giải pháp khôi phục loại hình nghệ thuật dân gian mang chất văn học trử tình hấp dẫn nói trên.
Hát Ống
Trong hát Huê tình ỏ Bình Định có trò hát Ống.
Dùng một ống tre đường kính khoảng 5 cm (về sau, người ta dùng lon sữa bò đục thủng hai đầu). Dùng da kỳ đà hoặc bong bóng lợn ngâm nước hột cau phơi khô để bịt kín một đầu ống. Chọt thủng một lỗ nhỏ ở tâm điểm mặt da và luồn một sợi nhợ dài bằng tơ tằm hay tơ gai xe thật săn rồi dùng sáp ong chuốt cho thật liền bóng. Sợi nhợ rất dài có thể nối qua ống của nhà người hát ở láng giềng. Người bên nầy chỏ miệng vào đầu trống của ống để hát Huê tình cho người bên kia nghe cũng qua đầu ống trống. Giọng người hát chuyền qua dây, nghe mơ hồ, khó nhận biết được người hát là ai, nhưng câu hát thì nghe rất rõ.
Thường thì từng đôi nam nữ hát đối đáp qua ống, nhưng lắm khi cả tốp nữ, tốp nam thay nhau hát Ống.
Hát Ru con
Lớp người già ở tỉnh Bình Định không thể nào quên làn điệu hát Ru con ngọt ngào, muồi tai của các bà mẹ Bình Định.
Hát Ru Bình Định có 3 điệu trong 3 tình huống khác nhau. Ba điệu là Ru sốc, Ru đưa, Ru mùi. Ru sốc hát đầu tiên khi con đang khóc nên tiết tấu phải nhanh để át tiếng khóc. Điệu thứ hai là Ru đưa khi con đã nín, người mẹ tiếp tục ru cho con ngũ, điệu hát bắt đầu chậm lại. Đến điệu thứ ba, Ru mùi là điệu kết, khi con đã ngũ rồi, người mẹ ru thêm cho con ngủ ngon hơn, sâu hơn nên tiết tấu phải chậm rải, sâu lắng, âm điệu luyến láy, mượt mà. Do đó, Ru mùi phải được kết thúc bằng câu có cụm từ chữ cuối là thanh huyền “Nghĩa nhơn ba gánh tràn trề, Gánh từ Tuy Viễn gánh về Bồng Sơn, Mẹ cha nào kể thiệt hơn, Bạc vàng nặng ít, nghĩa nhơn nặng nhiều“ (từ nhiều thanh huyền). Nếu câu cuối có từ cuối là thanh bằng thì khó hát và hát không hay.
Hát Ru hay, giúp trẻ ngủ ngon giấc.Với nội dung lành mạnh, hát Ru con là một loại hình nghệ thuật dân gian có tác dụng giáo dục hiệu quả trẻ thơ về lòng yêu quê hương, đất nước.
Ngày nay, đa số bà mẹ trẻ dưới 50 tuổi đều không biết hát Ru. Đó là một thiệt thòi cho trẻ thơ. Nên chăng, Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp phối hợp với ngành văn hóa-nghệ thuật tổ chức các cuộc hội thi và dạy hát Ru con cho thanh, thiếu nữ và các bà mẹ trẻ.
Hoài Ân
Hoài Ân là huyện trung du, miền núi có 3 dân tộc sinh sống là Kinh, Ba Na, và H’Rê, với dân số đến năm 2004 là 95.000 người. Huyện Hoài Ân có diện tích tự nhiên trên 744 km2, lớn thứ nhì so với các huyện, thị trong tỉnh Bình Định; phía bắc giáp huyện Hoài Nhơn, phía nam giáp huyện Vĩnh Thạnh, phía đông giáp huyện Phù Mỹ, phía tây giáp huyện An Lão.
Năm 1890, vua Thành Thái cho đặt Hoài Ân châu ở thượng du huyện Bồng Sơn, thuộc Nghĩa Định Sơn phòng. Năm 1899, triều đình Huế cho cắt tổng Vạn Đức, 9 thôn của tổng Trung Yên, 5 thôn của tổng Kim Sơn (xưa kia gọi là Ô Lim, Ô Kim) và 14 thôn của tổng An Sơn thuộc huyện Bồng Sơn, lập huyện Hoài Ân gồm 3 tổng Hoài Đức, Quy Hóa, Vân Sơn với 61 làng, do phủ Hoài Nhơn thống hạt. Sau đó, 3 tổng cũ được phiên chế lại thành 4 tổng Phú Hữu, Hoài Đức, Quy Hóa, Kim Sơn gồm 66 làng, trong đó có 1 làng sống trên sông nước gọi là Bình Giang. Huyện lỵ đầu tiên đặt tại làng Phước Bình (Ân Hảo), sau chuyển xuống làng Mỹ Thành (Ân Tín), đến năm 1937, dời về làng An Thường (Ân Thạnh). Năm 1920, huyện Hoài Ân được phân chia lại còn 3 tổng: Quy Hóa (21 thôn), Hoài Đức (có chợ Hội Long) và Vân Sơn (19 thôn). Năm 1932, triều Minh Mạng thực hiện cải cách hành chính, Hoài Ân là một trong 4 huyện (Hoài Ân, Phù Mỹ, Phù Cát, Bình Khê) đồng cấp với 3 phủ (Hoài Nhơn, Tuy Phước, An Nhơn), nghĩa là không còn lệ vào phủ Hoài Nhơn như trước.
Trong kháng chiến chống Pháp, sau 2 lần nhập xã vào năm 1946 và 1848, huyện Hoài Ân còn 15 xã. Dưới chế độ Mỹ-ngụy, năm 1955, ngụy quyền Bình Định đổi huyện thành quận, Hoài Ân vẫn gồm 15 xã . Năm 1976, thời tỉnh Nghĩa Bình, huyện An Lão sát nhập vào huyện Hoài Ân nên tăng lên 18 xã. Năm 1980, chia huyện Hoài Ân thành 2 huyện An Lão và Hoài Ân như cũ; huyện Hoài Ân có 11 xã. Sau nhiều lần điều chỉnh địa giới hành chính (năm 1997, chia xã Ân Tường thành 2 xã Ân Tường Đông và Ân Tường Tây; thành lập thị trấn Tăng Bạt Hổ), đến năm 2000, huyện Hoài Ân có 1 thị trấn là Tăng Bạt Hổ và 13 xã: Ân Hỏa, Ân Mỹ, Ân Tín, Ân Thạnh, Ân Phong, Ân Đức, Ân Hữu, Ân Tường Tây, Ân Tường Đông, Ân Nghĩa, Ân Sơn, Bok Tới và Đak Mang.
Nhân dân Hoài Ân vốn có truyền thống đấu tranh kiên cường chống áp bức, bất công, chống ngoại xâm, với nhiều cuộc nổi dậy của nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Chàng Lía, với nhiều phong trào chống Pháp xâm lược, tiêu biểu là chiến sĩ Cần Vương Tăng Bạt Hổ và các chiến hữu của ông.
Nằm dựa lưng vào các tỉnh Tây Nguyên là Gia Lai và Kon Tum, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, huyện Hoài Ân là vùng hậu cứ chiến lược của tỉnh và khu V. Thời kháng Pháp, Hoài Ân là căn cứ vững chắc, bảo vệ an toàn các cơ quan đầu não của tỉnh và khu V, là hậu phương vững mạnh, đáp ứng đầy đủ các nhu cầu về huy động nhân, tài, vật lực phục vụ chiến trường khu V và Tây Nguyên. Đài Tiếng nói Miền Nam đã di chuyển về Hoài Ân hoạt động một thời gian.
Trong kháng chiến chống Mỹ, dù bị địch đánh phá vô cùng ác liệt, Hoài Ân luôn giữ vững và phát huy vai trò căn cứ địa chiến lược, là nơi khai sinh Sư đoàn 3 anh hùng, là nơi đóng quân của các lực lượng vũ trang Giải phóng, là địa phương đã lập nên chiến công oanh liệt: Chiến thắng Gò Loi, tạo khâu đột phá để giải phóng hoàn toàn huyện Hoài Ân vào ngày 19.4.1972, là huyện đồng bằng đầu tiên của khu V được hoàn toàn giải phóng trong kháng chiến chống Mỹ.
Hoài Nhơn
Huyện Hoài Nhơn ngày nay, phía bắc giáp huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, phía nam giáp huyện Phù Mỹ và huyện Hoài Ân, phía tây giáp huyện An Lão, phía đông giáp biển.
Xưa kia, vùng đất Hoài Nhơn bao gồm huyện Bồng Sơn và huyện Hoài Ân ngày nay. Huyện Bồng Sơn là một trong 3 huyện (Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn) của phủ Hoài Nhơn được thành lập vào tháng 7/1471, thời vua Lê Thánh Tôn. Lúc mới thành lập, huyện Bồng Sơn có 7 xã, đến năm 1490 thì có 3 tổng, 32 xã.
Từ năm 1471 trở đi, nhân dân Đàng Ngoài, gồm dân nghèo, tù binh và phạm nhân được đưa vào sinh cơ, lập nghiệp tại huyện Bồng Sơn và phủ Hoài Nhơn. Năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng đổi tên phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy Nhơn, huyện Bồng Sơn vẫn thuộc phủ Quy Nhơn. Buổi đầu, triều Nguyễn (1802-1826) vẫn giữ các huyện Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viến thuộc dinh (sau đổi thành trấn) Bình Định, nhưng lại lập ra phủ Quy Nhơn, đặt chức quan đứng đầu phủ, lúc đầu gọi là Khám lý, sau đổi là Tri phủ, kiêm lý Tri huyện Phù Ly và thống hạt Tri huyện Bồng Sơn và Tri huyện Tuy Viễn.
Năm 1815, huyện Bồng Sơn gồm 3 tổng: Thượng, Trung, Hạ, nhưng chỉ còn 12 xã. Năm 1832, dưới triều Minh Mạng, trấn Bình Định được đổi thành tỉnh Bình Định gồm hai phủ là Hoài Nhơn và An Nhơn. Trừ huyện Bồng Sơn vẫn giữ nguyên địa giới cũ; còn huyện Phù Ly được chia thành 2 huyện là Phù Mỹ và Phù Cát, huyện Tuy Viễn được chia thành 2 huyện là Tuy Phước, Tuy Viễn; toàn tỉnh có 5 huyện là Bồng Sơn, Phù Mỹ, Phù Cát, Tuy Phước, Tuy Viễn.
Năm 1832, huyện Bồng Sơn có đặt chức Tri Huyện, nhưng từ 1865 thì không đặt chức Tri huyện mà do Tri phủ Hoài Nhơn kiêm lý. Từ 1839-1885, huyện Bồng Sơn có 4 tổng: Định Sơn, Thượng, Trung, Hạ, 168 thôn, thuộc phủ Hoài Nhơn. Đến năm 1920, tỉnh Bình Định gồm 3 phủ: Hoài Nhơn, An Nhơn, Tuy Phước và 4 huyện: Hoài Ân, Phù Mỹ, Phù Cát, Bình Khê đồng cấp, nghia là không còn cơ chế thống hạt hay kiêm lý như trước. Huyện Bồng Sơn trở thành phủ Hoài Nhơn gồm 4 tổng: Tài Lương có 36 xã thôn, An Sơn có 24 xã thôn, Trung An có 21 xã, Kim Sơn có 25 xã thôn.
Trong kháng chiến chống Pháp (1945-1955), sau hai lần nhập xã (1946 và 1948), huyện Hoài Nhơn gồm 12 xã tồn tại đến khi nhân dân ta kết thúc thăng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp.
Dưới chế độ Mỹ-ngụy (1955-1975), huyện Hoài Nhơn đổi thành quận; năm 1961, quận Hoài Nhơn chia thành 2 quận Hoài Nhơn (26 xã) và Tam Quan (6 xã).
Sau ngày giải phóng, huyện Hoài Nhơn gồm 12 xã, 82 thôn. Từ đó đên cuối thế kỷ XX, huyện Hoài Nhơn nhiều lần tiến hành điều chỉnh địa giới hành chánh. Năm 1986, lấy một phần đất của xã Bồng Sơn, lập xã Hoài Tiến; chia xã Hoài Thanh thành 2 xã Hoài Thanh và Hoài Thắng; chia xã Tam Quan thành 2 xã Tam Quan Nam và Tam Quan Bắc; chia xã Hoài Hảo thành 2 xã Hoài Hảo và Hoài Phú; chia xã Hoài Châu thành 2 xã Hoài Châu và Hoài Thuận (sau đổi thành Hoài Châu Bắc). Năm 1991, lập xã Hoài Hải gồm thôn Kim Giao của xã Hoài Hương và thôn Diêu Quan xã Hoài Mỹ. Năm 1994, thành lập thị trấn Bồng Sơn trên cơ sở sát nhập xã Bồng Sơn Tây vào thị trấn Bồng Sơn; năm 1997, thành lập thị trấn Tam Quan.
Đến cuối năm 2000, huyện Hoài Nhơn gồm 2 thị trấn là Bồng Sơn và Tam Quan và 15 xã: Hoài Sơn, Hoài Châu, Hoài Châu Bắc, Hoài Phú,Tam Quan Nam, Tam Quan Bắc, Hoài Hảo, Hoài Thanh, Hoài Thanh Tây, Hoài Hương, Hoài Tân, Hoài Hải, Hoài Xuân, Hoài Mỹ và Hoài Đức.
Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Hoài Nhơn là huyện sớm hình thành tổ chức cách mang là Chi bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội (ra đời năm 1928); sớm thành lập chi bộ Đảng: Chi bộ Cửu Lợi ra đời tháng 8/1930. Hoài Nhơn là địa phương thành lập đảng bộ huyện đầu tiên của tỉnh (năm 1930). Trong các cao trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945, Đảng bộ và nhân dân Hoài Nhơn đã có nhiều đóng góp to lớn, góp phần giành thắng lợi vẻ vang trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Trong kháng chiến chống Pháp, về căn bản, Hoài Nhơn là vùng tự do, các hoạt động kinh tế, nhất là về sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh, buôn bán rất phát đạt; văn hóa, giáo dục, y tế cũng rất phát triển. Thị trấn Bồng Sơn kinh doanh buôn bán sầm uất là Thủ phủ kháng chiến của tỉnh Bình Định và khu V. Trường Trung học Nguyễn Huệ của tỉnh đã về đóng tại thôn Vạn Thắng, cách Bồng Sơn khoảng 2 km về phía đông. Năm 1949, quân dân Hoài Nhơn đã lập chiến công oanh liệt: Chiến thắng Bồng Sơn-Chợ Cát bẻ gãy cuộc càn quét lấn chiếm của quân Pháp, diệt hàng trăm tên địch.
Thời chống Mỹ, cứu nước, nhất là sau khi Mỹ đổ quân vào Miền Nam, Hoài Nhơn là địa bàn bị địch đánh phá vô cùng ác liệt. Nhưng quân dân Hoài Nhơn đã chiến đấu kiên cường, dũng cảm, lập nhiều chiến công oanh liệt, tiêu biểu là Chiến thắng vang dội mùa khô 1965-1966, bẻ gãy một mũi tên chiến lược “tìm diệt” của quân viễn chinh Mỹ; Chiến thắng Bồng Sơn-Đệ Đức năm 1972. Sự tich Đồi 10 là chấm son sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân dân Hoài Nhơn.
Hoành Sơn
Hoành Sơn, tên thường gọi là Nùi Ngang nằm theo hướng tây-nam đông-bắc thuộc địa phận thôn Trinh Tường, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn. Hòn Hoành Sơn cao khoảng hơn 360 mét, nhưng dài và rộng; phía tây và phía nam có dòng suối Đồng Tre và chi lưu ôm sát bên chân núi; phía bắc là quốc lộ 19; phía đông là cánh đồng Trinh Tường tiếp giáp đồng Phú Phong.
Tương truyền, tại Hoành Sơn có mộ của Hồ Phi Phúc, thân sinh anh em nhà Tây Sơn.
Hòn Ông Bình
Hòn Ông Bình cao hơn 790 mét, nằm phía tây thôn Thượng Giang, cây cối sầm uất, trông rất kỳ vỹ và bí hiểm. Triền phía bắc hòn Ông Bình có đường đèo đi từ Đồng Hào ở phía đông, lên Trạm Gò, Cửu An ở ngả tây gọi là đèo Vạn Tuế. Triền phía nam có con đường mòn chạy theo hướng đông-nam để đến đèo An Khê.
Bình là tên chữ của Nguyễn Huệ, Nguyễn Quang Bình.
Hòn Ông Nhạc
Hòn Ông Nhạc nằm đối xứng với Hòn Ông Bình, nhưng xiêng xiêng về hướng đông-nam. Hòn Ông Nhạc cũng cao, rậm và bí hiểm như Hòn Ông Bình.
Khi phất cờ khởi nghĩa, nghĩa quân Tây Sơn đóng ở Hòn Ông Nhạc đều tập trung qua Hòn Ông Bình, rồi đại binh kéo đến đèo An Khê làm lễ tế cờ khởi nghĩa.