G
Giao thông vận tải
Thời chúa Nguyễn
Từ 1672, giao thông đường bộ tại phủ Quy Nhơn có 3 tuyến đường huyết mạch quan trọng là:
Đường Thiên lý Bắc Nam từ quán Bến Đá-đèo Bình Đê giáp giới phủ Quảng Ngãi, vào quán Bồ Đề, quán Phủ Cũ, đến quán Tre, quán Lang Kha, vào Quán Chùa, Quán Mới, quán Canh Hàn, quán Phú Bình rồi đến quán chân đèo Truông Ninh giáp tỉnh Phú Yên. Đi bộ qua đất phủ Quy Nhơn mất bốn ngày rưỡi.
Đường Thượng đạo cũng tiện lợi cho bộ hành. Đi bộ theo đường Thượng đạo từ quán Bến Đá, giáp ranh Quảng Ngãi đến quán Luật Dương, Đồng Duệ, Đồng Hươu, quán Cầu Bông đến đất Tây Sơn, rồi từ Tây Sơn đi xuống đường cái gặp quán Lạc. Đi bộ theo đường Thượng đạo qua phủ Quy Nhơn mất hơn 5 ngày. Thời Tây Sơn, Trần Quang Diệu đã theo đường Thượng đạo ra đánh chiêm Phú Xuân.
Đường nối Thượng đạo với Thiên lý. Theo Lê Quý Đôn thì thế kỷ XVIII, đã có con đường nối đường Thượng đạo và đường Thiên lý, nó chính là tiền thân của Quốc lộ 19 ngày nay.
Phủ Quy Nhơn vào thế kỷ XVIII vừa là đầu mối giao thông liên lạc, vừa là trung tâm giao lưu hàng hoá của xứ Đàng Trong.
Chúa Nguyễn cho lập nhiều trạm nghỉ trên đường Thiên lý đi qua phủ Quy Nhơn (sau nầy là tỉnh Bình Định); cứ cách khoảng 30 dặm thì đặt một nhà trạm để bộ hành ăn uống, nghỉ ngơi, thay ngựa, chuyển tiếp công văn. Đầu thế kỷ XIX, các trạm được đổi tên như sau: Trạm Thạch Tân ở thôn Lân Đê, huyện Bồng Sơn đổi thành Trạm Bình Đê, giáp giới tỉnh Quảng Ngãi; Trạm Trung An ở thôn Trung An đổi thành Trạm Bình Trung; Trạm Cây Thị ở thôn Dương Liễu, huyện Phù Mỹ đổi thành Trạm Bình Dương; Trạm Thạch Quán ở thôn Đại Thạnh huyện Phù Mỹ đổi thành trạm Bình Sơn; Trạm Gò Găng ở thôn Kiền An huyện Phù Cát đổi là Trạm Bình An; Trạm Quán Gạo ở thôn Mỹ Điền huyện Tuy Phước đổi thành Trạm Bình Điền; Trạm Bình Phú; đèo Cù Mông giáp giới tỉnh Phú Yên.
Về đường thuỷ, phủ Quy Nhơn có nhiều sông lớn như sông Lại Dương (Lại Giang) phát nguyên từ vùng núi huyện Bồng Sơn đổ ra biển bằng 2 cửa Kim Bồng và An Dũ; sông La Tinh ở huyện Phù Cát đổ ra cửa biển Đề Gi; sông Tam Huyện (sông Côn) chảy qua 3 huyện Tuy Viễn, Tuy Phước và Phù Cát, do 3 nguồn nước từ núi cao tạo thành, chảy về phía đông thành 4 dòng chảy, rồi đổ ra đầm Thị Nại, chảy ra biển; sông Vân Sơn (còn gọi là sông Hà Thanh) chảy qua huyện Tuy Phước và thành phố Quy Nhơn rồi đổ ra đầm Thị Nại. Những con sông trên nối liền 3 vùng núi đồi, đồng bằng và duyên hải, rất tiện lợi cho việc đi lại bằng ghe thuyền, giao lưu hàng hóa giữa miền ngược và miền xuôi.
Phủ Quy Nhơn cũng có nhiều ưu thế về đường biển. Với bờ biển dài trên 130 km, xưa kia có nhiều cửa biển như Tam Quan, Thời Phú, Đề Gi, Kẻ Thử, Thị Nại... và các đầm nước ngọt, nước mặn rất tiện lợi cho tàu thuyền cập bến, neo đậu
Thời các Chúa Nguyễn, phủ Quy Nhơn có số lượng thuyền vận tải nhiều nhất xứ Đàng Trong: 93 chiếc so với 60 chiếc của phủ Quảng Ngãi, 60 chiếc của phủ Triệu Phong, 50 chiếc của phủ Thăng Hoa, 45 chiếc của phủ Bình Thuận và 44 chiếc của phủ Phú Yên, là những phủ có tương đối nhiều thuyền. Còn các phủ như Điện Bàn chỉ có 3 chiếc, Gia Định chỉ có 7 chiếc.
Thời Tây Sơn
Giao thông, vận tải thời Tây Sơn nổi nhất là đường thủy, với những chiếc thuyền bườm trọng tải lớn. Các cửa biển của phủ Quy Nhơn như An Dũ, Thị Nại là những công xưởng đóng thuyền của Nhà nước. Nổi tiếng nhất là loại thuyền Đại Hiệu, thuyền lớn chở cả voi, 50-60 khẩu đại bác hạng nặng và hàng trăm binh lính. Trọng tải thuyền Tây Sơn vượt xa thuyền Chúa Nguyễn cùng thời được đóng, trang bị theo kỹ thuật phương Tây. Chỉ riêng tại xưởng đóng thuyền Lê Dương, sau khi đánh chiếm, quân Nguyễn đã thu được 30 chiếc thuyền mới.
Dưới Triều Nguyễn và thời Pháp thuộc
Dưới triều Nguyễn, giao thông vận tải bắt đầu được mở mang, chủ yếu là tu sửa, mở rộng đường Thiên lý và mở thêm một vài tỉnh lộ nối liền đồng bằng với trung du miền núi. Hầu như chưa có tuyến đường bộ nào được tráng nhựa. Vận tải đường bộ chủ yếu bằng ngựa, voi, xe ngựa, xe bò...Vận tải đường biển chủ yếu bằng thuyền buồm có thể chạy từ Quy Nhơn ra Đà Nẵng, Vinh và vào tận Sài Gòn.
Sau khi đặt ách đô hộ trên đất nước ta, thực dân Pháp ra sức phát triển giao thông vận tải thủy, bộ để khai thác kinh tế thuộc địa, vơ vét tài nguyên, sản vật của nhân dân ta, làm giàu cho chính quốc. Quốc lộ IA (có khoảng 130 km chạy qua Bình Định) và quốc lộ 19 (chạy qua Bình Định trên 100 km) được cải tạo, nâng cấp và tráng nhựa. Một số đường tỉnh lộ quan trọng cũng được tráng nhựa, còn phần lớn là đường đất, đường cấp phối như tỉnh lộ chạy từ thị trấn Phù Mỹ đi Đề-Gi; tỉnh lộ chạy từ Cầu Dợi (Hoài Nhơn) đi Hoài Ân...
Về đường sắt, sau khi hoàn thành việc xây dựng tuyến đường sắt cuối cùng từ Đà Nẵng đi Nha Trang, đường sắt xuyên Việt từ Bắc vào Nam,130 km đường sắt chạy qua tỉnh Bình Định được đưa vào khai thác. Năm 1928, thực dân Pháp khởi công xây dựng ga Quy Nhơn và đến năm 1932 thì xây xong tuyến đường sắt Diêu Trì-Quy Nhơn dài 10,2 km; từ ga Quy Nhơn, có đoạn đường sắt dài 4 km chạy ra Cảng. Trên tuyến đường sắt chạy ngang qua tỉnh Bình Định có hệ thống ga xe lửa lớn nhỏ: Chương Hoà, Tam Quan, Bồng Sơn, Phù Mỹ, Mục Thịnh..., trong đó có ga đầu mối quan trọng là Diêu Trì.
Về đường biển, sau khi xây xong Toà Sứ ở Quy Nhơn, từ năm 1892, thực dân Pháp bắt đầu đặt các phao hướng dẫn tàu bè ra vào Cảng Thị Nại. Đến năm 1899, Pháp cho xây dựng tại đảo Xanh (Pháp gọi là Paulo Gambir, nay là xã đảo Nhơn Châu) một ngọn hải đăng có độ cao 119 mét so với mặt nước biển (riêng ngọn hải đăng cao 19 mét) để hướng dẫn tàu thuyền cập Cảng Quy Nhơn. Ngoài ra, còn có một ngọn đèn cảng ánh sáng trắng đặt cố định trên mũi đất chiếu sáng eo lạch bên trong, tàu ở xa 5, 6 dặm có thể nhìn thấy được. Ngọn đèn cảng là tín hiệu cho phép các tàu lớn có thể thả neo ở ngoài lạch, đảm bảo an toàn. Năm 1931, thực dân Pháp cho nạo vét luồng lạch, cải tạo, nâng cấp Cảng Quy Nhơn, xây dựng một cầu tàu mới, dân sở tại gọi là cầu Bà Đệ, có chiều dài 16 mét, rộng 5 mét rất kiên cố, nằm sát mực nước, có một trụ đèn đỏ cao 1 mét để hướng dẫn tàú đến cầu bôc dỡ hàng hoá. Đến năm 1935, sau nhiều lần nâng cấp và mở rộng Cảng Quy Nhơn, tàu thuyền trên dưới 3.000 tấn có thể cập cảng.
Giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển phát triển mạnh nên giao thông vận tải đường sông bị thu hẹp dần.
Với hệ thống giao thông thuận tiện, có quốc lộ IA và đường sắt xuyên Việt chạy ngang qua tỉnh, có quốc lộ 19 nối liền Quy Nhơn với Tây Nguyên, có các tuyến đường bộ, đường sắt chạy đến cảng biển Quy Nhơn, đô thị Quy Nhơn trở thành trung tâm giao lưu hàng hóa của tỉnh Bình Định và các tỉnh Phú Yên, Quảng Ngãi với các tỉnh Tây Nguyên và Trung Hạ Lào.
Trên lĩnh vực giao thông đường bộ, Công ty Vận tải ô tô Trung Trung kỳ viết tắt là STACA (Société Transport Autombiles du Centre Annam) thao túng việc vận chuyển hàng hóa và hành khách tuyến đường bộ từ Đà Nẵng đi Quy Nhơn vào đến Nha Trang. Công ty Vĩnh An cũng lớn, nhưng chỉ kinh doanh vận tải nội tỉnh. Các công ty tư nhân như Bourbon, Demonfort, Trần Sanh Thoại, Nguyễn Thọ Thuật, Phước An, Bùi Văn Có, Ba Nhơn..., mỗi cơ sở chỉ có vài chiếc xe ô tô nên chỉ chạy đường ngắn, chủ yếu khai thác tuyến Quy Nhơn-Tây Nguyên.
Hoạt động vận tải đường biển ở Cảng Quy Nhơn, chủ yếu thuộc về Công ty Hàng hải (Messageries Maritimes) còn gọi là Hãng Đầu Ngựa, trụ sở đặt tại đường Gia Long (nay là Trần Hưng Đạo). Các tàu phụ của Công ty Hàng hải cứ 15 ngày 1 chuyến liên lạc từ Sài Gòn với tuyến chính (gồm các tàu chở thư của Pháp). Các tàu chạy bằng hơi nước của Đức làm dịch vụ vận tải giữa Hồng Kông, Singapore hoạt động đều đặn cứ 20 ngày 1 chuyến. Ngoài ra, Công ty Hàng hải còn thiết lập dịch vụ vận tải do tàu trọng tải nhỏ chạy tuyến Quy Nhơn-Sài Gòn, có ghé vào các cảng nhỏ trung gian nằm trên tuyến. Thuyền buồm Trung Quốc theo gió mùa cũng thường cập Cảng Quy Nhơn, phần lớn xuất phát từ Hải Nam, Xiêm, Tân Gia Ba. Thuyền buồm của người Việt thì chạy suốt bờ biển Trung Kỳ (Vinh, Đà Nẵng, Quy Nhơn) vào đến Nam Kỳ và ra tận Hảí Phòng.
Dịch vụ vận tải đường sắt do chính quyền bảo hộ nắm giữ.
Thời kháng chiến chống Pháp
Sau khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, năm 1947, thực hiện “ tiêu thổ kháng chiến ”, các đường giao thông quan trọng mà xe cơ giới có thể lưu thông như quốc lộ IA, quốc lộ 19, các tỉnh lộ Phù Mỹ-Đề Gi, Cầu Dợi-Hoài Ân...đều bị phá hoại với nhiều hố ngang, hố dọc, nhiều ụ chướng ngại vật; đường sắt cũng bị tháo đường ray ở nhiều nơi, nhằm gây trở ngại và đề phòng quân địch hành quân càn quét, đánh phá vùng ta. Việc đi lại, vận chuyển hàng hóa của nhân dân chủ yếu băng các phương tiện thô sơ như đi bộ, xe bò, xe ngựa, xe đạp, thuyền bè...
Đến năm 1949, khi cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu chuyển sang giai đoạn phản công, thì các tuyến đường bộ, đường sắt dần được sửa chữa, khôi phục. Các loại xe ô tô tải, ô tô hành khách bắt đầu hoạt động trở lại, chủ yếu trên các đường quốc lộ 1 và 19; cam nhông ray chạy suốt từ giáp giới Quảng Ngãi đến Phú Yên. Việc vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược, quân đội... phục vụ chiến trường được thực hiện bằng xe đạp thồ, xe ô tô, cam nhông ray và bằng ghe thuyền đi đường sông.
Đến năm 1952, giao thông đường thủy tỉnh Bình Định đã trang bị 520 thuyền tải, riêng trên sông Côn có 172 chiếc, sông Lại Giang có 95 chiếc trọng tải 1-2 tấn. Năm 1953, Công đoàn Thuyền tải Bình Định đã vận chuyển phục vụ chiến trường 800 tấn vũ khí, lương thực, Công đoàn Thuyền tải xã Hoài Đức (Hoài Nhơn) đã vận chuyển an toàn 8 tấn vũ khí, máy móc, lương thực chạy trên tuyến dài 25 km, phục vụ quân đội.
Những năm kháng Pháp, ngành giao thông vận tải Bình Định đã có nhiều nổ lực vượt bậc trong việc tu sửa, mở mang, xây dựng đường sá, cầu cống, khai thác các phương tiện vận tải cơ giới, thô sơ, nhất là phương tiện thô sơ, đảm bảo vận chuyển vũ khí, lương thực, lưu thông hàng hoá phục vụ các chiến trường Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, Bình-Trị-Thiên, Đông Nam Bộ.
Thời Mỹ-ngụy
Về đường bộ, quốc lộ IA chạy từ Bình Đê đến Cù Mông, địa phận tỉnh Bình Định được nâng cấp, tráng nhựa lại mặt đường. Quốc lộ 19 chạy từ Quy Nhơn đến Play-cu dài 169 km (có 108 km chạy qua địa phận tỉnh Bình Định) cũng đựơc nâng cấp, mở rộng; mặt đường được tráng nhựa tốt.
Trong TP. Quy Nhơn, thời Pháp thuộc chỉ có 6 đường phố chính đến thời ngụy quyền Sài Gòn tăng lên 47 đường, tổng cộng 30,8 km đều được cán đá hoặc tráng nhựa.
Nhằm phục vụ chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và đánh phá phong trào cách mạng, ngụy quyền tỉnh Bình Định mở thêm nhiều đường liên tỉnh và tỉnh lộ, như tỉnh lộ số 6 từ Diêu Trì đến Mục Thịnh (Vân Canh) dài 39 km, đã tráng nhựa 7 km; tỉnh lộ số 3 từ Lại Khánh (Hoài Nhơn) đến Vườn Xoài, giáp quốc lộ 19 (quận Bình Khê) qua Kim Sơn và Vĩnh Thạnh, dài 70 km; tỉnh lộ số 5 từ Chợ Gồm (Phù Cát) đến Đề Gi dài 22 km và đoạn nối Đề Gi với Bình Dương dài 28 km; tỉnh lộ số 4 từ Bồng Sơn đến An Lão dài 30 km. Ngoài ra, nguỵ quyền tỉnh Bình Định còn cho xây dựng rất nhiều hương lộ như Bồng Sơn-An Dũ dài 11 km; Tài Lương-An Hội dài 15 km; Chương Hoà-An Mỹ dài 4 km, An Thái-An Đỗ dài 18 km; Phù Mỹ-Thanh Xuân dài 12 km; Hòa Hiệp-Hội Sơn dài 20 km; Phù Cát-Cách Thử dài 23 km; Gò Găng-KIên Mỹ dài 19 km; Lai Nghi-Gò Bồi dài 30 km; Phú Tài-Mỹ Lợi dài 7 km; Nhơn Thọ-An Tường dài 13 km; An Tượng-Kanak dài 25 km; Phi Long-Kongo dài 15 km...
Về đường sắt, đường sắt Bắc Nam chạy qua địa phận tỉnh Bình Định song song với quốc lộ IA, từ cây số 980, hầm Bình Đê (xã Hoài Châu, Hoài Nhơn) đến cây số 1.133 cộng 820 (xã Canh Tịnh, Vân Canh) dài 135 km và đường nhánh Diêu Trì-Quy Nhơn dài 10,2 km có từ thời Pháp thuộc cũng được nguỵ quyền Sài Gòn tu sửa, nâng cấp.
Về đường thủy, cảng biển Quy Nhơn được nguỵ quyền Sài Gòn quan tâm đầu tư nâng cấp cảng dân sự với cầu nối dài 100 mét, có thể cập cảng một lúc 4 tàu. Năm 1966-1967, quân đội Mỹ xây dựng mới một cảng quân sự với một cầu tàu dài 300 mét, có mực nước sâu từ 7-9 mét, một lúc có thể cập bến 10 tàu viễn dương quân sự. Hệ thống cần trục, xe xúc được trang bị khá hiện đại. Năm 1968, thương cảng Quy Nhơn tiếp nhận 182 tàu nhập cảng gần 186.200 tấn hàng hoá đủ loại và xuất cảng gần 25.080 tấn hàng quân sự và dụng cụ phế thải; cảng quân sự tiếp nhận 359 tàu quân sự lớn nhỏ của Hoa Kỳ nhập cảng một khối lượng lớn hàng hóa lên tới 1.336.808 tấn, phần lớn là hàng quân sự và xăng dầu trang bị cho quân đội Mỹ-nguỵ; năm 1970 nhập 226.800 tấn và xuất 25.400 tấn hàng hóa.
Ngoài Cảng Quy Nhơn, các cửa biển Tam Quan, Đề Gi, Bàu Tượng, An Dũ cũng có nhiều ghe bầu thường xuyên vận chuyển mỗi năm 40-50 tấn hàng đi Sài Gòn, Phú Quốc, Nam Vang (tức Pnông Pênh, Campuchia).
Bên cạnh những hoạt động vận tải đường biển, vận tải đường thủy nội địa cũng khá nhộn nhịp thông qua các tuyến như Quy Nhơn đi Gò Bồi, Đề Gi; Quy Nhơn đi Sông Cầu (Phú Yên)...
Về đường hàng không, năm 1960, Mỹ-ngụy lấn chiếm đất đai, cày ũi nhà cửa, mồ mả của nhân dân để xây dựng sân bay Gò Quánh (Phù Cát), chủ yếu phục vụ quân sự. Tại trung tâm Quy Nhơn còn có một sân bay trực thuộc Nha Hàng không dân sự có đường bay dài 1.516 mét, rộng 330m, có thể tiếp nhận các loại máy bay 4 động cơ lớn như DC4, C130, C133 và các loại máy bay phản lực cỡ nhỏ như T39, C140. Sân bay Quy Nhơn được trang bị đầy đủ các trang thiết bị hiện đại, có một đài không lưu với các loại máy móc tối tân hoạt động 24/24 giờ trong ngày, chủ yếu phục vụ các hoạt động quân sự. Năm 1974, sân bay Quy Nhơn hoạt động khá tấp nập với các chuyến bay Quy Nhơn-Sài Gòn, mỗi ngày một chuyến; Quy Nhơn-Huế, mỗi tuần một chuyến; Quy Nhơn-Đà Lạt, mỗi tuần một chuyến; Quy Nhơn-Buôn Ma Thuột, mỗi tuần một chuyến; Quy Nhơn-Đà Nẵng, mỗi tuần 3 chuyến và Quy Nhơn-Phú Bổn, mỗi tuần 2 chuyến.
Thời tái thiết, đổi mới
Sau giải phóng, tỉnh Bình Định phải đối mặt với tình trạng hệ thống giao thông bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Các tuyến đường đi ngang qua địa phận tỉnh Bình Định hầu như bị xóa sạch gần hết. Quốc lộ IA và quốc lộ 19 bị phá hoại và hư hỏng nặng nhiều đoạn; hơn nữa, các tuyến nói trên, thời Mỹ nguỵ không xây cầu vĩnh cửu. Các tuyến đường tỉnh lộ cũng bị xuống cấp nghiêm trọng, như ở huyện Phù Mỹ, các tuyến DT 632 Phù Mỹ-Đề Gi (9 km), Vạn An-Phú Thứ (9 km), Nhà Đá-An Lương (8 km), phần lớn là đường đất bị sạt lở nhiều đoạn, mặt đường hẹp, tất cả cầu cống đều tạm bợ nên không đảm bảo giao thông thông suốt nhất là vào mùa mưa lũ.
Công nghiệp xây dựng giao thông địch để lại không có gì đáng kể, chỉ có một nhà máy sản xuất đá và bê tông nhựa, nhưng đã ngừng hoạt động từ năm 1972, thiết bị máy móc bị tháo gỡ, mất mát khá nhiều. Máy móc thi công đường sá địch để lại chỉ võn vẹn 25 xe, máy cũ kỹ. Năng lực vận tải, nhất là ở nông thôn rất yếu kém.
Nhận rõ tầm quan trọng của mạng lưới giao thông trong khôi phục, phát triển kinh tế, lưu thông hàng hóa và giao lưu văn hóa, ngành giao thông vận tải tỉnh đã nổ lực khắc phục mọi khó khăn, thiếu thốn về vật tư, trang thiết bị, áp dụng nhiều giải pháp tích cực, huy động mọi khả năng, mọi lực lượng cùng cả nước khẩn trương khôi phục các tuyến giao thông huyết mạch. Ngành đã huy động hơn 5 vạn ngày công lao động và 5 triệu đồng ngân sách Nhà nước, hoàn thành việc khôi phục tuyến đường sắt Thống Nhất chạy qua địa phận tỉnh nhà, đúng vào dịp Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV. Từ tháng 7.1975 đến tháng 11.1976, tuyến quốc lộ IA chạy qua tỉnh và các tuyến đường nội tỉnh đều được sửa chữa, khôi phục, đảm bảo giao thông thông suốt.
Chỉ tính riêng 6 tháng cuối năm 1975, toàn tỉnh đã vận chuyển gần 240.000 tấn hàng hóa,1.863.000 lượt hành khách theo đường bộ; Csảng Quy Nhơn nhập được 87.000 tấn hàng hóa và xuất hơn 1.600m3 gỗ ván sàn.
Năm 1977, tỉnh triển khai thực hiện kế hoạch khôi phục, nâng cấp các tuyến đường tỉnh lộ, huyện lộ và xây dựng mới một số tuyến đường đi vào các công trình thủy lợi, một số tuyến đường miền núi, ven biển. Đồng thời củng cố, kiện toàn, xây mới các công ty cầu đường, các xí nghiệp vận tải và phát động phong trào toàn dân làm giao thông. Năm 1978, phong trào hợp tác hoá nông nghiệp phát triển mạnh, phong trào làm giao thông nông thôn, nâng cấp, xây mới các tuyến đường liên xã, liên thôn phát triển đều khắp các địa phương trong tỉnh. Năm 1979, ngành giao thông vận tải tỉnh tiến hành quy hoạch lại mạng lưới giao thông vận tải, thực hiện cải tạo lực lượng vận tải nhẹ, thô sơ và tập trung quản lý tất cả các phương tiện vận tải bằng hình thức hợp tác xã. Những năm 1981-1984, ngành giao thông vận tải tỉnh tập trung mọi cố gắng phát triển giao thông miền núi, giao thông nông thôn; tu sửa, nâng cấp cầu đường đảm bảo xe cộ đi lại thuận lợi. Nhiều tuyến đường ngang chính từ quốc lộ IA, quốc lộ 19 lên đến trung tâm huyện miền núi như các tuyến Bồng Sơn-An Lão, Diêu Trì-Vân Canh, Vân Canh-Mục Thịnh được đưa vào khai thác có hiệu quả. Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm, nhân dân làm là chính, Nhà nước hỗ trợ ”, hệ thống đường ngang, đường nhánh từ trung tâm các huyện đến xã, đến các cụm kinh tế, các khu định canh, định cư, các tuyến đường vào hợp tác xã nông nghiệp và đường ra đồng ruộng được xây dựng và đưa vào hoạt động, phục vụ đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và giao lưu hàng hóa giữa các vùng nông thôn.
Thời kỳ đổi mới, mạng lưới giao thông thủy bộ trên địa bàn tỉnh ngày càng được nâng cấp, phát triển, đảm bảo giao lưu thông suốt giữa tỉnh Bình Định với Tây Nguyên và các địa phương trong cả nước, với các nước Lào, Campuchia, các nước ASEAN và nhiều nước trên thế giới.
Các tuyến tỉnh lộ như trục đường 629 từ Bồng Sơn đi An Lão, tuyến 633 từ Chợ Gồm đi Đề Gi, tuyến 636 từ An Nhơn đi Tây Sơn, tuyến 637 từ Tây Sơn đi Vĩnh Thạnh; các tỉnh lộ 638, 639, 640 nối liền thành phố Quy Nhơn với các huyện miền núi và các vùng kinh tế, du lịch; các tuyến nội tỉnh như Gò Bồi-Đề Gi (15km), Cát Chánh-Nhơn Lý, Ông Đô-Cát Trinh (45km) đều được nâng cấp hay xây mới. Đường Quy Nhơn-Sông Càu dài 33 km, được khởi công xây dựng năm 1997, đến năm 2000 thì hoàn thành về cơ bản. Cầu Kiên Mỹ dài 543 mét, bắt ngang qua sông Côn trên địa bàn huyện Tây Sơn là cây cầu dài nhất từ trước đến nay do tỉnh Bình Định đầu tư xây dựng. Năm 2000, dự án cầu đường Quy Nhơn-Nhơn Hội đã được khởi công xây dựng, đến tháng 12/2006 thì hoàn thành và đưa vào sử dụng cầu Thị Nại, cây cầu vượt biển dài nhất Việt Nam (hơn 2,5km), nối liền nội thành Quy Nhơn với Khu Kinh tế Nhơn Hội..
Hệ thống giao thông nông thôn, như các tuyến đường liên huyện, liên xã, liên phường ngày càng hoàn chỉnh với gần 3.020 km nối liền các vùng, các địa phương với nhau, tạo điều kiện cho mỗi vùng đều phảt triển, phát huy lợi thế, nhằm tránh sự chênh lệch quá xa về trình độ phát triển và từng bước tạo sự phát triển đồng đều giũa các vùng, các địa phương trong tỉnh. Tuy nhiên đến năm 2000 trên địa bàn tỉnh vẫn cò 3 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xã là Nhơn Lý, Nhơn Hội, Nhơn Hải. Một số xã miền núi tuy đã có đường ô tô, nhưng là đường đất chỉ đi lại được trong mùa nắng cón đến mùa mưa thì lầy lội, gây ách tắc giao thông, như các xã An Toàn, An Nghĩa (An Lão), Bok Tới, Dak Mang (Hoài Ân), Canh Liên (Vân Canh), Vĩnh Hòa (Vĩnh Thạnh).
Từ năm 2000 đến đầu năm 2010, hệ thống giao thông trên địa bàn tỉnh đã được quy hoạch, đầu tư nâng cấp, xây dựng theo hướng đồng bộ, khép kín. Như đã nâng cấp quốc lộ IA, quốc lộ 19, xây dựng quốc lộ ID, tuyến cầu đường Quy Nhơn-Nhơn Hội, tuyến đường ven biển Nhơn Hội-Tam Quan, tuyến đường phía tây tỉnh, tuyến Gò Găng-Cát Tiến; nâng cấp hệ thống tỉnh lộ và thực hiện có hiệu quả chương trình bê tông hóa giao thông nông thôn. Nhờ đó, mạng lưới giao thông trên địa bàn tỉnh ngày càng hoàn thiện, chất lượng cao hơn trước, với tổng chiều dài 4.125 km (tăng trên 400 km so với năm 2000). Trong đó, hệ thống quốc lộ dài 208 km, 100% đạt tiêu chuẩn đường cấp III, cấp IV đồng bằng; các tuyến tỉnh lộ dài 467 km đạt tiêu chuẩn đường cấp V đồng bằng; các tuyến đường liên xã và mạng lưới giao thông nông thôn dài 3.450 km, có 2.118 km đã được bê tông hóa.
Đối với các huyện miền núi, từ khi các tuyến tỉnh lộ DT 629 Bồng Sơn-An Lão, DT 630 Cầu Dợi-Kim Sơn, DT 638 Diệu Trì-Vân Canh, DT 637 Tây Sơn-Vĩnh Thạnh được nâng cấp, thảm nhựa. đổ bê tông xi măng, việc đi lại và giao lưu, buôn bán của nhân dân các huyện miền núi, các vùng cao thuận lợi hơn trước nhiều, nên kinh tế và dân sinh của các địa phương nói trên ngày càng cải thiện.
Quốc lộ IA, đường ven biển Nhơn Hội-Tam Quan và đường phía Tây tỉnh từ Nhơn Tân ra Chương Hòa chạy suốt chiều dài tỉnh và các tuyến đường ngang nối các tuyến đường dọc, đã tạo thuận lợi cho việc đi lại giao lưu văn hóa, lưu thông hàng hóa giữa các vùng trong tỉnh, giữa miền núi, đồng bằng và vùng ven biển.
Về đường thủy, tỉnh Bình Định có nhiều cửa biển như Tam Quan (Hoài Nhơn), Đề Gi (Phù Cát), Quy Nhơn rất thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng các loại tàu biển. Đặc biệt, Cảng Quy Nhơn được đầu tư nâng cấp và xây mới hệ thống cầu cảng, nạo vét luồng lạch, mua sắm trang thiết bị máy móc bốc dỡ hàng, mở rộng hệ thống kho bãi, đảm bảo tàu 2,5 vạn tấn ra vào dễ dàng. Năm 1997, Cảng đầu tư 8 tỷ đồng xây mới 4.000 m2 nhà kho, xây dựng một số tuyến đường giao thông nội cảng; từ 1997-2000, đầu tư 107 tỷ đồng nâng cấp, mở rộng Cảng. Nhờ vậy, sản lượng hàng hóa thông qua Cảng tăng cao, năm 2000 đạt gần 1,5 triệu tấn, gấp 3,3 lần so với năm 1995. Từ Cảng Quy Nhơn có thể thông thương hai chiều với các cảng trong nước như Nha Trang, Sài Gòn, Đà Nẵng, Vinh, Hải Phòng, Hòn Gai và các nước và vùng lãnh thổ như Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc, Thái Lan, Singapore, Nhật Bản, Nga, Italia, Úc, Ấn Độ...Cảng Thị Nại đảm bảo tàu trọng tải 5.000 tấn vào ra dễ dàng, năng lực thông qua Cảng 300.000 tấn/năm, nhưng năm 2000 mới đạt 187.000 tấn, tăng 3,2 lần so với năm 1995. Cảng Đống Đa được bán đảo Phương Mai chắn gió, là nơi trú ẩn của các loại tàu có trọng tải 2.500-5.000 tấn, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các loại hình dịch vụ hậu cần nghề cá.
Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có 149 km đường thủy nội địa với sự lưu thông thường xuyên của 331 tàu thuyền vận tải hành khách, hàng hóa và hàng trăm đò ngang, 5.500 ghe, tàu đánh bắt hải sản.
Tuyến đường sắt Thống Nhất chạy ngang qua địa phận tỉnh Bình Định dài 149 km, qua các ga lớn như Tam Quan, Bồng Sơn, Phù Mỹ, Diêu Trì và Quy Nhơn, trong đó ga Diêu Trì là một trong những ga đầu mối lớn trên tuyến đường sắt xuyên Việt. Nhờ tỉnh tích cực cải tạo, nâng cấp hệ thống cầu cống, thay mới toàn bộ đường ray, tà vẹt nên tốc độ chạy tàu từ 30-40 km/giờ những năm 1976-1986 tăng lên 80-100 km/giờ thời kỳ 1986-2000.
Về đường hàng không, sân bay Quy Nhơn đã bị phá bỏ, chỉ còn sân bay Phù Cát phục vụ phát triển kinh tế- xã hội. Đây là một sân bay hiện đại có đường bay dài 3,1 km. Hiện sân bay Phù Cát có những chuyến bay hai chiều với thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Hà Nội.
Về vận tải, nhờ có mạng lưới giao thông phát triển rộng khắp cả đồng bằng, ven biển và mìiền núi, đến tận đơn vị hành chính cơ sở và tích cực huy động các thành phần kinh tế làm vận tải, nên khối lượng vận chuyển hàng hoá và hành khách tăng rất cao, có thể coi là đột biến. Khối lượng vận tải hàng hóa bình quân trong 5 năm 1986-1990 tăng 40,8% so với bình quân 5 năm 1981-1985, trong đó đường bộ tăng 22,8%, đường biển tăng gấp 2 lần. Năm 1990, tổng khối lượng hàng hóa vận chuyển là 870.000 tấn (năm 1986, 415.000 tấn; năm 1989, gần 495.000 tấn). Thời kỳ 1991-1995, các phương tiện vận tải phát triển nhanh và đồng bộ, tập trung ở các độ thị, thị trấn, thị tứ, dọc quốc lộ IA, đường 19 và các tỉnh lộ. Khối lượng hàng hóa vận chuyển bình quân thời kỳ nầy đạt 1,8 triệu tấn/năm, tăng gấp 2,9 lần; khối lượng luân chuyển đạt 214,9 triệu/km, tăng 5,5 lần so với thời kỳ 1986-1990. Giai đoạn 1991-1995, tốc độ vận chuyển hàng hóa tăng bình quân 120,7%/năm, trong đó đường bộ tăng 120,8, đường biển tăng 116,9%; tốc độ luân chuyển hàng hóa tăng bình quân 118,8%/năm, trong đó đường bộ tăng 124,4%, đường biển tăng 114,8%. Giai đoạn 1996-2000, tốc độ vận chuyển hàng hóa tăng bình quân 91,3%/năm, trong đó đường bộ tăng 91,3%, đường biển tănag 83,9%; tốc độ luân chuyển hàng hóa tăng bình quân 99,2%/năm, trong đó đường bộ tăng 106,9%, đường biển tăng 81,5%, đường sông tăng 155,1%. Khối lượng hàng hóa vận chuyển năm 1991 đạt 1.365.000 tấn (trong đó đường bộ đạt 1.225.000 tấn, đường biển đạt 40.000 tấn), năm 2000 đạt 1.421 tấn (trong đó đường bộ đạt 1.371 tấn/km, đường biển 30 tấn, đường sông 20.000 tấn).Giai đoạn 2001-2010, khối lượng vận chuyển hàng hóa tăng bình quân 20,1%/năm, trong đó đường bộ tăng 20,3%, đường biển tăng 16,2%, đường sông giảm 2,7%; khối lượng luân chuyển hàng hóa tăng bình quân 19,5%/năm, trong đó đường bộ tăng 20,6%, đường biển tăng 12,5%, đường sông giảm 19%. Khối lượng hàng hóa vận chuyển năm 2000 đạt 1.421.000 tấn (trong đó đường bộ đạt 1.371.000 tấn, đường biển tấn 30.000 tấn, đường sông 20.000 tấn). Năm 2010, khối lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường bộ đạt 8.699.000 tấn; sản lượng hàng hóa xuất nhật khẩu thông qua cảng biển đạt 4.500.000 tấn (năm 2000 chỉ đạt 1.656.000 tấn); khối lượng hàng hóa vận chuyển bằag đường sông giảm cò 10.000 tấn.
Giáo dục
Thời Chúa Nguyễn
Dưới triều Lê, tháng 7.1471, phủ Hoài Nhơn được thành lập, sau đổi thành phủ Quy Nhơn, thuộc Thừa tuyên Quảng Nam. Thời Chúa Nguyễn (1471-1773), việc học hành, thi cử hầu như chưa được quan tâm phát triển. Sau 1 thế kỷ mở đất, mãi đến năm 1578, những đoàn người Việt từ Đàng Ngoài lần lượt vào phủ Hoài Nhơn khai hoang, lập ấp, xây làng, trong đó có nhiều người có trình độ học vấn là những hạt giống gieo mầm giáo dục đầu tiên trên vùng đất mới. Cuối thế kỷ XVI, thời Chúa Nguyễn, tại phủ Quy Nhơn đã có chức Huấn đạo phụ trách việc học tập, trông coi các trường lớp cấp cơ sở do Chúa mở và quản lý những lớp học tư ở thôn ấp, mỗi lớp 5-7 học sinh, đa số là con nhà khá giả; thầy giáo là những Sinh đồ, người đỗ kỳ thi Chính đồ do Chúa tổ chức. Chúa Nguyễn còn đặt lệ “Khảo quan” để kiểm tra trình độ quan lại. Năm 1768, dưới thời Nguyễn Phúc Thuần, Đàng Trong mở khoa thi Hương đầu tiên. Đặng Đức Siêu, quê làng Phụng Can, huyện Bồng Sơn, là người Bình Định đầu tiên đổ Hương tiến (cử nhân) tại khoa thi nầy. Ông đỗ cử nhân khi mới 16 tuổi.
Thời Tây Sơn (1773-1802), Nhà nước chủ trương cho mở trường học đến tận làng xã nên trên đất Bình Định xuất hiện nhiều trường học, đặc biệt là hệ thống trường tư thục. Nhưng vì chiến tranh liên miên nên việc học hành bị ngưng trệ. Sau khi lên ngôi Hoàng đế, vua Quang Trung cho lập viện Sùng Chính, cử Nguyễn Thiếp làm Viện trưởng chuyên coi việc học, nhằm “hưng khởi chính học”. Năm 1789, vua Quang Trung mở khoa thi Hương đầu tiên tại Phú Xuân để chọn người tài giỏi ra giúp dân, dựng nước. Đinh Sĩ An, quê Bình Khê, Phạm Văn Trung, quê Phù Mỹ, Phạm Cần Chỉnh, quê Phù Cát đã thi đổ trong kỳ thi nầy. Vua Quang Trung còn ban hành chiếu khuyến học, dùng chữ Nôm thay cho chữ Hán, kể cả trong thi cử và trong các văn bản của Triều đình. Mùa xuân năm 1792, vua Quang Trung mất đột ngột; 10 năm sau, nhà Tây Sơn sụp đổ; những chủ trương tiến bộ của vua Quang Trung về chấn hưng giáo dục đành bỏ dở.
Triều Nguyễn
Sự nghiệp giáo dục, thi cử ở Bình Định được quan tâm phát triển. Ngay sau khi chiếm được phủ thành Quy Nhơn, đổi tên là thành Bình Định, tháng 11 năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Ánh đã cho tổ chức kỳ thi khảo hạch ở Bình Định, có 400 người trúng tuyển. Sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua và cho lập dinh Bình Định (1802), thì việc giáo dục và thi cử bắt đầu có quy củ. Vua Gia Long chủ trương khôi phục chế độ khoa cử thời Lê, dùng chữ Hán trong học hành, thi cử cũng như trong các văn bản của Triều đình.
Tại tỉnh Bình Định, năm 1802, Gia Long cho lập Văn Miếu thờ Khổng tử, ông Tổ Nho học, tại làng Vĩnh Lại huyện Tuy Viễn (nay thuộc xã Nhơn Thành, An Nhơn); đến năm Minh Mạng thứ 10 (1829), Văn Miếu được trùng tu. Về sau, các phủ, huyện đều lập Văn Chỉ để thờ Khổng Tử. Năm 1802, Triều đình cử Đặng Đức Huy (con Đặng Đức Siêu) giữ chức Đốc học đầu tiên ở Bình Định để trông coi việc học trong toàn dinh. Khi dinh Bình Định đổi thành trấn (1808), Gia Long đặt các chức Đốc học, Phó Đốc học, Huấn đạo, Trợ giáo. Dưới triều Minh Mạng, từ 1832, bỏ chức Đốc học ở trấn, đặt chức Giáo thụ ở phủ gồm 4 thuộc viên, chức Huấn đạo ở huyện gồm 3 thuộc viên. Từ khi đặt thêm phủ An Nhơn, chia huyện Tuy Viễn thành 2 huyện Tuy viễn và Tuy Phước, chia huyện Phù Ly thành 2 huyện Phù Mỹ và Phù Cát, Triều Nguyễn đặt 1 Giáo thụ ở phủ An Nhơn, 1 Huấn đạo ở mỗi huyện mới lập, làm nhiệm vụ trông coi việc học tại địa phương. Với cấp tổng, xã, mỗi tổng chọn 2-3 người có học lực khá, từ 50 tuổi trở lên, được Nhà nước cấp bằng để dạy bậc sơ học ở làng, xã, phường. Đội ngũ giáo chức cấp cơ sở được Nhà nước kiểm tra thường xuyên để sàng lọc, thuyên chuyển hoặc cho nghỉ. Loại hình trướng tư thục đã có từ trước vẫn được duy trì và phát triển.
Triều Nguyễn quy định quy mô từng loại trường như sau: nhà học ở phủ gồm 3 gian, 2 chái, dài 4 trượng, 4 thước,7 tấc, ngang 3 trượng, 1 thước; nhà học ở huyện nhỏ hơn, dài 3 trượng, 9 thước, 2 tấc, ngang 2 trượng, 6 thước, 4 tấc.
Dười triều Nguyễn, tại tỉnh Bình Định có 1 trường tỉnh, 3 trường phủ và 3 trường huyện.
Trường tỉnh được dựng từ thời Gia Long tại làng Kim Châu, huyện Tuy Viễn. Năm 1842, trường dời về làng Liêm Trực, huyện Tuy Phước, phía nam thành Bình Định.
Trường phủ Hoài Nhơn, nguyên trước là trường huyện Bồng Sơn ở làng Liêm Bình, năm 1865 đổi làm trường phủ; Triều Đồng Khánh (1886-1889), Trường dời về làng Lệ Đức, tổng Trung An.
Trường phủ An Nhơn, nguyên trước là trường huyện Tuy Viễn nằm tại làng Hòa Cư, năm 1832 đổi làm trường phủ An Nhiơn. Đến năm 1865, Trường dời về làng Mỹ Thịnh, huyện Tuy Viễn, nằm phía tây phủ lỵ. Năm 1899, Trường được xây lại tại làng Thắng Công.
Trường phủ Tuy Phước, nguyên là trường huyện ở làng Hanh Quang, năm 1902 được xây lại tại làng Trung Tín, tổng Nhơn Ân; đến năm 1906 được đổi thành Trường phủ Tuy Phước.
Trường huyện Phù Mỹ dựng năm 1832 tại làng Trà Quang, phía nam huyện lỵ; năm 1852, trường bị giảm bỏ, đến năm 1865 thì được xây dựng lại.
Trường huyện Phù Cát nguyên là trường phủ Hoài Nhơn dựng năm 1821 tại làng Xuân Hội, năm 1865 trường dời đến làng Hòa Hội, đổi làm Trường huyện Phù Cát; năm 1893, Trường dời về làng Phong An, tổng Xuân An.
Trường huyện Bình Khê dựng năm Đồng Khánh thứ 3 (1888) ở làng Thượng Giang, phía bắc huyện lỵ.
Năm 1813, vua Gia Long xuống chiếu cho đặt tại trấn Bình Định một Trường Thi Hương để học trò các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa (nay là Bình Thuận, Ninh Thuận) về thi. Nhưng mãi đến năm 1851, Trường mới được xây dựng và năm 1852, tổ chức khoa thi Hương đầu tiên, chấm đỗ 13 cử nhân. Về sau, khi Trường Thi Gia định không còn tồn tại, Trường Thi Bình Định trở thành địa chỉ duy nhất hội tụ sĩ tử các tỉnh phía nam từ Quảng Ngãi trở vào Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Ninh Thuận và lục tỉnh Nam Kỳ. Trường Thi Bình Định tồn tại đến kỳ thi cuồi cùng năm 1918, tổng cộng đã mở được 24 khoa thi, kể cả ân khoa. Theo thể lệ thi cử của triều Nguyễn, cứ 3 năm Trường Thi Bình Định mở một khoa Thi Hương vào các năm Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu, nếu có kỳ ân khoa thì thi liền năm. Các năm 1861,1864,1868,1918, Trường Thi Bình Định không tổ chức thi Hương do trong nước có nhiều biến động chính trị.
Trong vòng 63 năm (1852-1915), Trường Thi Bình Định tổ chức 22 khoa thi Hương, tuyển chọn được 342 cử nhân, trong đó có 194 vị người Bình Định, còn lại 148 vị thuộc 4 tỉnh bạn. Nếu tính 8 cử nhân người Bình Định đỗ năm 1850 (lúc Trường Thi Bình Định còn tá túc trường Thừa Thiên) và 9 cử nhân thi đỗ tại Trường Thừa Thiên cùng thời gian Trường Bình Định mở khoa thi, thì sĩ tử Bình Định có 211 người đỗ tiến sĩ, phó bảng, cử nhân. Trước khi Trường Thi Bình Định ra đời, sĩ tử Bình Định phải ra tận kinh đô Huế để thi, gồm 13 khoa trong vòng 27 năm (1821-1848), đỗ đạt 42 cử nhân và 4 tiến sĩ. Như vậy, kể cả trước và sau khi Trường Thi Bình Định ra đời, sĩ tử Bình Định đỗ đạt 257 cử nhân. Không kể người Bình Định khai khoa cử nhân đầu tiên (1767) là Đặng Đức Siêu (quê huyện Bồng Sơn, làm quan đến chức Thượng thư Bộ Lễ dưới triều Lê), thì 3 người khai khoa cử nhân đầu tiên của sĩ tử Bình Định đều đỗ khoa thi 1821. Đó là Hồ Văn Nghĩa, quê làng Vĩnh Phước, huyện Bồng Sơn, thi ở Trường Gia Định; Huỳnh Văn Minh, quê Phú Hội, Phù Cát và Nguyễn Văn Thống, quê Trà Lam, Phù Mỹ đều thi đỗ ở Trường Thừa Thiên (còn gọi là trường Trực Lệ). Sĩ tử Bình Định ra thi tại Trường Thừa Thiên các khoa truớc năm 1852 và 3 khoa 1861,1864, 1918 có 2 người đỗ thủ khoa là Lê Doãn Xuân sinh năm 1837, quê làng An Chánh, huyện Tuy Phước và Trần Văn Chánh, sinh năm 1840, quê làng Lân Chiểu, huyện Bồng Sơn.
ộiKể từ khi Bình Định có người đổ cử nhân đầu tiên, 1767 đến khi chấm dứt các khoa thi chữ Hán trên phạm vi toàn quốc, 1919, thì tỉnh Bình Định có khoảng 700 tú tài, 250 cử nhân, 3 phó bảng, 6 tiến sĩ (cả văn và võ) và 1 hoàng giáp. Cử nhân đầu tiên và trẻ nhất là Đặng Đức Siêu, đỗ năm 1767 dưới triều Lê, lúc16 tuổi. Tiến sĩ đầu tiên và trẻ nhất là Lê Văn Chân, quê huyện Phù Mỹ, đậu năm 1835, lúc 18 tuổi.
Năm 1868, Triều đình Nguyễn cho mở Trường Thi Võ ở Bình Định cùng với Hà Nội, Thanh Hóa, Thừa Thiên. Thi võ được tổ choc tiếp theo thi Hương về văn. Sau khi thi Hương võ đỗ, thí sinh được thi Hội võ ở kinh đô. Người đỗ cử nhân Võ đầu tiên của tỉnh Bình Định là Bùi Khắc Tri, quê xã Nhơn Hòa, huyện Tuy Phước. Hai Tiến sĩ Võ người Bình Định trong số 10 Tiến sĩ Võ được khắc tên trên 3 tấm Bia Tiến sĩ Võ đặt tại Võ Miếu Huế là Nguyễn Văn Tứ (đỗ khoa thi năm 1868) và Đặng Đức Tuấn (đỗ khoa thi năm 1869).
Thời Pháp đô hộ nước ta
Thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân, nên việc học hành của nhân dân Bình Định chẳng những ít được mở mang mà còn có phần lạc hậu so với nhiều tỉnh trong cả nước.
Từ khi có Hiệp ước Giáp Tuất (1874) đến năm 1919, thực dân Pháp vẫn duy trì chế độ giáo dục phong kiến tồn tại song song với chế độ giáo dục Pháp-Việt. Năm 1919, Pháp ra lệnh bãi bỏ trường dạy chữ Hán, bỏ thi Hương, thi Hội, cấm mở các trường tư, trừ trường Thiên Chúa giáo. Từ đây, chế độ giáo dục thực dân giữ địa vị thống trị ở nước ta; nội dung giáo dục thể hiện rõ bản chất phục vụ chính sách nô dịch của chế độ thực dân.
Hệ thống giáo dục phổ thông thời Pháp thuộc gồm 3 bậc. Bậc sơ đẳng có 3 lớp đồng ấu (lớp năm), dự bị (lớp tư), yếu lược (lớp ba); Bậc tiểu học có 3 lớp nhì đệ nhất, nhì đệ nhị và lớp nhất. (Học sinh học xong lớp ba, thi đậu yếu lược mới được tiếp tục học lớp nhì đệ nhất, bậc Tiểu học). Bậc trung học gồm 2 cấp: cao đẳng tiểu học (tương đương trung học cơ sở) có 4 lớp đệ nhất, đệ nhị, đệ tam và đệ tứ niên (Học xong đệ tứ niên, thi lấy bằng dipplome (thành chung) thì mới được tiếp tục học lên bậc tú tài). Bậc tú tài gồm các ban Khoa học (Sciences), Toán học (Mathématic), Triết học (Philosophie), học 3 năm, chia làm 2 giai đoan; tú tài 1 (bán phần) học 2 năm; tú tài 2, học đủ 3 năm thì thi tốt nghiệp lấy bằng tú tài toàn phần (Bac comples).
Tại tỉnh Bình Định, các vùng nông thôn đông dân chỉ có trường sơ cấp gồm 1, 2 lớp đầu cấp bậc tiểu học là lớp đồng ấu (cours enfantin), lớp dự bị (cours préparatoire). Những trường nầy gọi là Hương trường và giáo viên gọi là Hương sư. Trừ các lớp đồng ấu, dự bị (lớp 1,2 hiện nay) còn tất cả học sinh các cấp (từ lớp 3 hiện nay trở lên) đều phải dùng tiếng Pháp để học; tiếng Việt bị coi như “ngọai ngữ”. Mỗi làng có một Hương trường gồm 2 lớp đồng ấu và dự bị do Hương sư dạy. Mỗi tổng, nếu có từ 10-18 làng thì mở thêm lớp yếu lược (cours élémentaire), còn nếu dưới 10 làng thì cũng chỉ có 2 lớp đồng ấu và dự bị. Một số huyện có trường tiểu học toàn cấp gồm 6 lớp, có 3 lớp đồng ấu, dự bị, yếu lược và 3 lớp nhì đệ nhất, nhì đệ nhị (moyen 1, moyen 2) và lớp nhât (cours supérieur, tương đương lớp 5 ngày nay).
Năm 1932, cả tỉnh chỉ có 3 trường tiểu học toàn cấp (6 lớp), 10 trường sơ học (3-4 lớp), 60 trường dự bị (2 lớp), chủ yếu tập trung ở Quy Nhơn. Những năm 1940-1945, một số huyện đồng bằng có 1 trường tiểu học toàn cấp. Suốt thời Pháp thuộc, Quy Nhơn có 6 trường tiểu học và trung học. Đó là Trường Collège de Quy Nhơn (tương đương trường trung học cơ sở), Trường Trung học tư thục Nam Anh (nguyện là Trường Cẩm Bàn), 2 trường tiểu học công toàn cấp, trong đó có Trường Jean d’Are dành riêng cho con em người Pháp, 2 trường tiểu học tư thục là Trường Đào Duy Từ và Trường Gagelin của giáo phận Thiên Chúa Quy Nhơn chỉ tồn tại trong 2 năm học (1935-1937).
Trường Collège de Quy Nhơn (Quốc học Quy Nhơn) thu nhận học sinh từ Quảng Nam vào Bình Thuận và Tây Nguyên, là một trong 4 trường cao đẳng tiểu học ở Trung Kỳ (Huế có 2 trường, Vinh có 1 trường), là trường Quốc học duy nhất ở Nam Trung Kỳ lúc bấy giờ có đủ 10 lớp. Năm đông nhất, toàn trường có 400 học sinh từ lớp 5 đến đệ tứ; mỗi năm thi tốt nghiệp bằng Diplome (tương đương trung học cơ sở) không quá 30 người. (Xem vần D, mục Di tích Trường Collège de Quy Nhơn, trang 218s). Học xong lớp đệ tứ niên, thi lấy bằng cao đẳng tiểu học, muốn học lên bậc tú tài, học sinh Bình Định phải ra Huế hay Hà Nội.
Năm 1936, tỷ lệ học sinh các cấp so với số dân toàn tỉnh chỉ bằng 2,42%, trong đó 2% là học sinh bậc sơ học (lớp 1, 2 và 3 hiện nay). Gần 98% số dân mù chữ.
Thời Pháp đô hộ nước ta, cả tỉnh Bình Định chỉ có một người đỗ cao đẳng sư phạm (Đinh Thành Chương, quê xã Mỹ Thành, huyện Phù Mỹ thi đỗ tại Hà Nội); 9 người đỗ tú tài toàn phần (Đinh Thành Bài quê xã Mỹ Thành, Phù Mỹ; Lê Đình Cảnh quê xã Nhơn Phong, An Nhơn; Lê Văn Kim quê xã Nhơn Hòa, An Nhơn; Phạm Văn Ký quê xã Nhơn An, An Nhơn; Đặng Kiều Khản quê Diêu Trì, Tuy Phước; Đào Trử quê xã Phước Hưng, Tuy Phước; Đoàn Nhật Tấn quê xã Hoài Thanh, Hoài Nhơn; Nguyễn Quang Trứ quê xã Mỹ Chánh, Phù Mỹ và Đảo Thị Xuân Yến quê Hưng Thạnh, Quy Nhơn); 16 người đỗ tú tài bán phần và 94 người đỗ thành chung, trong khi thời phong kiến, dưới Triều Nguyễn, từ khi tỉnh Bình Định có Trường Thi Hương, 1852 đến 1919, toàn tỉnh có gần 700 người đỗ tú tài, 260 người đỗ cử nhân, tiến sĩ.
Thời kháng chiến chống Pháp, tỉnh Bình Định về cơ bản là vùng tự do nên sự nghiệp giáo dục phát triển mạnh mẽ và rộng khắp. Ngay sau ngày Cách mạng thành công, nặm 1945, Ty Bình dân học vụ tỉnh Bình Định được thành lập, do ông Lê Đại Lý làm Trưởng ty, Tiếp đến năm 1946, Ty Tiểu học ra đời, do ông Hà Thúc Lãng làm Trưởng ty. Hai ty Bình dân học vụ và Tiểu học làm nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo phát triển phong trào giáo dục trong tỉnh, trước mắt là phong trào “Diệt giặc dốt” theo Lời hiệu triệu của bác Hồ.
Chính sách “ngu dân“ của thực dân Pháp đã làm cho hơn 98% đồng bào ta mù chữ. Hưởng ứng Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Chống nạn thất học như chống giặc ngọai xâm“, ngay từ những ngày đầu sau khi nước nhà được hoàn toàn độc lập, tự do, phong trào bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ, dâng lên mạnh mẽ ở khắp nơi trong tỉnh. Cuối năm 1948, hai huyện Hoài Nhơn và Tuy Phước xóa xong nạn mù chữ, dẫn đầu là xã Phươc Lộc (Tuy Phước). Đầu năm 1949 toàn tỉnh xóa xong nạn mù chữ, kể cả ở miền núi. Tháng 8/1949, Sở Bình dân học vụ khu V tổ chức Đại hội mừng công xóa nạn mù chữ toàn liên khu tại tỉnh Bình Định. Giã Như Lan (Hoài Nhơn) và Nguyễn Đình Sung (An Lão) là 2 giáo viên được phong tặng danh hiệu: Chiến sí thi đua Diệt dốt toàn khu V. Giã Như Lans được Bác Hồ tặng ảnh chân dung Người có ghi dòng chữ “Tặng Chiến sĩ Diệt dốt”.
Phong trào giáo dục phổ thông không ngừng phát triển. Từ 1945 đến 1950, vẫn duy trì hệ thống giáo dục phổ thông cũ với các loại hình trường tiểu học huyện, sơ đẳng tổng, hương trường. Năm học 1946-1947, toàn tỉnh có 350 trường, 780 lớp học với 24.642 học sinh tiểu học, đến năm học 1947-1948, tăng lên 371 trường, 826 lớp với 29.588 học sinh (năm học 1944-1945 trước Cách mạng tháng Tám, toàn tỉnh chỉ có 47 trường với 4.300 học sinh). Sau Cách mạng tháng 8/1945, một số làng xã miền núi bắt đầu mở các lớp năm, lớp tư, mỗi lớp 10-15 học sinh là con em dân tộc ít người. Sau khi tỉnh thành lập 3 huyện miền núi, hai huyện Vân Canh và An Lão bắt đầu lập trường tiểu học, mổi trường khoảng 60 học sinh.
Về bậc phổ thông trung học, năm học 1945-1946, toàn tỉnh chỉ có Trường Trung học Võ Tánh gồm 4 lớp đệ nhất, đệ nhị, đệ tam và đệ tứ với 150 học sinh mở tại thôn An Lương (xã Mỹ Chánh, Phù Mỹ); năm học 1947-1948 dời về thôn Hòa Bình (xã Nhơn Phong, An Nhơn), đổi tên là Trường Nguyễn Huệ; năm học 1948-1949, Trường dời các lớp cuối cấp ra Vạn Thắng (Bồng Sơn, Hoài Nhơn), gọi là Nguyễn Huệ Bắc; còn phân hiệu Nguyễn Huệ Nam tại Hòa Bình chỉ có các lớp đầu cấp. Ngoài trường công lập Trung học Nguyễn Huệ của tỉnh, còn có 3 trường tư thục (Quang Thùy (Trường Thị Nại), Minh Viên (Trường Mai Xuân Thưởng) và Đặng Đức Tuấn). Năm 1948, tỉnh thành lập trường Trung học bình dân, sau đó một số huyện đồng bằng bắt đầu mở trường tiểu học bình dân. Như vậy đến thời điểm nầy, trên địa bàn tỉnh có 5 trường trung học với 1.065 học sinh. Năm học 1949-1950, Trường Nguyễn Huệ mở thêm 3 lớp chuyên khoa: 2 lớp đệ nhất và 1 lóp đệ nhị với 140 học sinh (có 5 nữ).
Giai đoạn 1945-1950, hệ thống giáo dục cũ 13 năm học phổ thông vẫn được giữ nguyên, nhưng chương trình, nội dung giảng dạy thì hoàn toàn khác trước: các môn học khoa học xã hội và tự nhiên đều được dạy bằng tiếng Việt; môn tiếng Việt được tăng cường; nội dung các môn lịch sử, địa lý, giáo dục công dân hoàn toàn mới; môn tiếng Pháp được dạy như một ngọai ngữ, nhưng chỉ học ở bậc trung học.
Năm học 1950-1951, thực hiện cải cách giáo dục lần thứ nhất, hệ thống giáo dục phổ thông mới gồm 9 lớp, 3 cấp thay thế cho hệ thống cũ gồm 13 lớp. Theo đó, trường tiểu học chuyển thành trường cấp I với các lớp 1, 2, 3 và 4; trường trung họa đổi thành trường cấp II với các lớp 5, 6 và 7; trường trung học chuyên khoa đổi thành trường cấp III với các lớp 8 và 9. Mục tiêu đào tạo được xác định là nhằm đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ thành “Người công dân, người lao động tương lai“; phương châm giáo dục là “Học đi đôi với hành”, “Giáo dục kết hợp lao động sản xuất ”.
Từ năm học 1950-1951, ngoài Trường Trung học Nguyễn Huệ của tỉnh, các huyện đồng bằng đều mở trường cấp II. Năm học 1952-1953, mỗi xã lớn có 4-5 trường cấp I hoàn chỉnh, quy mô 7-10 lớp với 800-1.000 học sinh; xã nhỏ có 2-3 trường; một số xã vùng sâu, miền núi chỉ có 2-3 lớp; toàn tỉnh Bình Định có 45.000 học sinh cấp I (năm học trước Cách mạng tháng 8/45 chỉ có 4.300 học sinh tiểu học).
Trước sư phát triển mạnh mẽ, rộng khắp của phong trào gíao dục tỉnh nhà, năm 1952, 2 Ty Bình dân học vụ và Tiểu học sát nhập thành Ty Giáo dục Bình Định, do ông Nguyễn Đức Ràng làm Trưởng ty.
Năm học 1953-1954, giáo dục Bình Định phát triển mạnh chưa từng có. Hầu hết các xã đều có 5-7 trường cấp I, gọi là Liên trường với 1.000-1.500 học sinh; mỗi huyện đồng bằng có 1-2 trường cấp II công lập với quy mô trên dưới 10 lớp; một số huyện có trường câp II dân lập. Toàn tỉnh có một trường cấp II-III công lập là Trường Trung học phổ thông Binh Định đặt tại thôn Hòa Bình nên thường gọi là Trường Trung học Hòa Bình (vốn là Trường Nguyễn Huệ trước đây) với 1.000 học sinh; 8 trường cấp II công lập của huyện, 5 trường cấp II dân lập; có 933 lớp cấp I với 41.868 học sinh (có 13.553 nữ sinh); 77 lớp cấp II với 3.139 học sinh (có 288 nữ); 20 lớp cấp III với 640 học sinh; 5 trường dân lập cấp II gồm 15 lớp có 721 học sinh; 12 lớp dân lập cấp I có 226 học sinh. Tính trung bình cứ 4 người dân có 1 học sinh phổ thông.
Về đội ngũ giáo viên, trừ những thầy cô đã dạy học trước Cách mạng tháng Tám, đa số đều chưa qua đào tạo sư phạm chính quy, phần lớn đều dạy “đôn” như đỗ tú tài Tây học thì dạy cấp III; đỗ thành chung dạy cấp II; chỉ có một số ít được đào tạo qua các lớp sư phạm cấp tốc, sư phạm ngắn hạn. Nhưng nhờ có tinh thần trách nhiệm cao, ý thức đào tạo thế hệ trẻ, nhất là tinh thần tự học, nghiên cứu, rút đúc kinh nghịệm qua các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ do ngành giáo dục tổ chức, nên đa số giáo viên đều dạy tốt, đặc biệt là nêu gương sáng cho học sinh noi theo; đa số học sinh ra trường đều được xã hội sử dụng hiệu quả; số tiếp tục học lên bậc cao hơn đều thành đạt.
Nhìn chung, thời kháng chiến chống Pháp, dù còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về đời sống vật chất, về phương tiện dạy và học, còn bất cập về đào tạo sư phạm, nhưng giáo dục Bình Định vẫn đảm bảo chất lượng, mang tính xã hội hóa và đa dạng hóa loại hình trường lớp, phục vụ sản xuất và kháng chiến có hiệu quả.
Thời kháng chiến chống Mỹ
Trong vùng căn cứ, giải phóng do chính quyền cách mạng quản lý
Từ năm 1960, tại 3 huyện miền núi Vĩnh Thạnh, An Lão, Vân Canh, đã mở các lớp bình dân học vụ cho người lớn tuổi và các lớp cấp I cho con em cán bộ và nhân dân theo học.
Năm 1962, hai cán bộ giáo dục từ Miền Bắc về chuyên lo công tác giáo dục. Đến năm 1964, đại bộ phận vùng nông thôn được giải phóng, Tiểu ban Giáo dục tỉnh được thành lập, phong trào giáo dục ngày càng phát triển mạnh mẽ, rộng khắp các vùng căn cứ, vùng giải phóng và cả ở các vùng tranh chấp.
Năm 1963, ta mở các lớp bình dân học vụ dạy chữ Ba Na, H’ Rê và tiếng Việt cho đồng bào các dân tộc ít người. Năm học1963-1964, các lớp bổ túc văn hóa cán bộ được mở tại các cơ quan tỉnh. Các huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát, Tuy Phước đều có trường bổ túc văn hóa cán bộ. Năm 1965, toàn tỉnh có khoảng 2.000 học viên bổ túc văn hóa và 915 lớp bình dân học vụ. Các thôn giải phóng: Thanh Quang (xã Phước Thắng, huyện Tuy Phước), Kim Sơn (Ân Nghĩa), Vạn Xuân, Thuận Hòa (Ân Hòa) thuộc huyện Hoài Ân là những lá cờ đầu phong trào thanh toán nạn mù chữ giai đoạn 1960-1965.
Về giáo dục phổ thông, vùng giải phóng mở ra đến đâu thì ta mở trường lớp phổ thông đến đó. Năm học 1964-1965, do đại bộ phận vùng nông thôn được giải phóng nên phong trào giáo dục Bình Định phát triển rất mạnh. Ta mở 1.552 lớp phổ thông cấp I ở tất cả 640 thôn giải phóng, làm chủ và tranh chấp ở đồng bằng, với 51.125 học sinh và 1.405 giáo viên; mở 8 lớp phổ thông cấp II và 1 lớp phổ thông cấp III thu nhận 500 học sinh vùng giải phóng. Tại vùng căn cứ, ta mở Trường nội trú Lê Quang Vịnh dành cho con em cán bộ tỉnh, huyện, xã đi thoát ly theo học. Tỉnh mở 1 lớp đào tạo giáo viên cấp II tại xã Cát Sơn (Phù Cát) và 1 lớp đào tạo giáo viên cấp I tại làng Tu Kơ Roong (Vĩnh Thạnh). Năm học 1964-1965, số học sinh chiếm 9% số dân vùng giải phóng. Nếu so với số học sinh vùng địch kiểm sóat cùng thời điểm thì số học sinh vùng ta nhiều hơn gấp 1,5 lần.
Mùa hè 1965, ngành Giáo dục Bình Định tổ chức Đại hội Nhà giáo yêu nước tại xã Cát Hiệp (Phù Cát). Tháng 11.1965, Tiểu ban Giáo dục khu V mở trường Sư phạm miền núi khu tại xã An Toàn (An Lão).
Từ giữa năm 1965, sau khi Mỹ ào ạt đổ quân vào tỉnh Bình Định và toàn Miền Nam, tiến hành nhiều cuộc hành quân càn quét, đánh phá ác liệt các vùng căn cứ và vùng giải phóng, phong trào giáo dục gặp nhiều khó khăn, tổn thất. Nhiều giáo viên và học sinh đã hy sinh vì bom đạn của quân thù. Nhưng ngành giáo dục Bình Định vẫn kiên trì và tích cực thực hiện khẩu hiệu “ Dân bám đất, giáo dục bám dân, giáo viên bám trường ”, “ địch càn ta nghỉ, địch rút ta dạy ”. Ta tiếp tục duy trì các trường lớp đã có và mở thêm nhiều trường lớp cấp II ở Hoài Nhơn, Phù Mỹ; mở lớp Sư phạm cấp I tại xã Hoài Sơn (Hoài Nhơn) có khoảng 30 giáo sinh. Đặc biệt, trường cấp III Hoài Nhơn do thầy Võ Nham làm Hiệu trưởng mở được 1 lớp 8 khoảng 30 học sinh.
Do Mỹ ngụy tiến hành phản công chiến lược mùa khô, đánh phá rất ác liệt các vùng giải phóng, căn cứ nên trường cấp III Hoài Nhơn mới dạy được một học kỳ phải ngừng hoạt động, học sinh thoát ly tham gia kháng chiến. Trường Sư phạm sơ cấp Hoài Nhơn bị địch tập kích, một số giáo viên, giáo sinh bị địch bắt. Dưới làn bom đạn của quân thù, giáo viên vẫn tìm mọi cách nuôi dưỡng, phát triển giáo dục. Đồng chí Trần Cao Niên, giáo viên cấp II huyện Phù Mỹ, từ chỗ chỉ có một thầy một trò, đã tận tụy, kiên trì vận động, xây dựng được 1 lớp học 30 học sinh, giảng dạy có chất lượng. Nhiều lớp học được mở tại các công sự nằm sâu trong lòng đất, có lớp học nằm sát đồn bốt, căn cứ địch như ở Đồi Mười (xã Hoài Châu, Hoài Nhơn), ở Chánh Trực (xã Mỹ Thọ, huyện Phù Mỹ). Giữa năm 1966, tại vùng giải phóng phía bắc tỉnh (từ bắc Phù Mỹ trở ra), có 23.000 học sinh phổ thông và 5.000 học viên bình dân học vụ. Nhưng đến cuối năm 1967, vì bị địch đánh phá ác liệt nên toàn tỉnh chỉ duy trì được 100 lớp học phổ thông với 2.000 học sinh ở các huyện Vĩnh Thạnh, Hoài Nhơn, Phù Mỹ.
Sau chiến dịch Tết Mậu Thân 1968, ngành giáo dục tỉnh mở hội nghị sơ kết, phát động phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt”. Từ đó, phong trào phát triển nhanh chóng và toàn diện cả về phổ thông, bổ túc văn hóa và bình dân học vụ ở cả vùng căn cứ miền núi, vùng giải phóng đồng bằng và vùng tranh chấp giữa ta và địch. Đến đầu năm 1968, ta đã khôi phục được 201 lớp với 3.800 học sinh. Kết thúc năm học 1967-1968, số học sinh phổ thông toàn tỉnh tăng gấp 4 lần năm học 1966-1967; số học sinh thi đậu cấp I đạt 76%, thi đậu cấp II dạt 90%. Số học viên bình dân học vụ tăng 1,5 lần so với năm học trước. Riêng huyện Vĩnh Thạnh có 223 học viên bình dân học vụ và 43 cán bộ học ở 3 lớp bổ túc văn hóa.
Mặc dù đầu năm 1968, địch tăng cường đánh phá lấn chiếm vùng giải phóng, đẩy mạnh kế hoạch “bình định” nông thôn, công tác giáo dục gặp nhiều khó khăn, nhưng kết thúc năm học 1968-1969, toàn tỉnh có 467 lớp cấp I với hơn 11.980 học sinh, 403 giáo viên; 13 lớp cấp II với 362 học sinh, 18 giáo viên. Riêng huyện Hoài Nhơn có 13 lớp phổ thông với 673 học sinh, trong đó có 1lớp 7. Về bình dân học vụ, toàn tỉnh có 106 lớp, 673 học viên (riêng huyện Vĩnh Thạnh có 59 lớp, 388 học viên). Toàn tỉnh mở 6 trường bổ túc văn hóa của tỉnh và huyện, gồm 12 lớp cấp I với 146 học viên. Ngoài ra, còn có các lớp Sư phạm cấp tốc đào tạo hàng trăm giáo viên cấp I.
Tháng 4 năm 1972, các huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn và các xã phía bắc huyện Phù Mỹ được hoàn toàn giải phóng tạo thành một mãng liên hoàn nối liền vùng căn cứ An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân Canh. Vùng giải phóng mở rộng đến đâu thì trường lớp mọc lên đến đó. Trường Sư phạm sơ cấp của tỉnh năm 1967 bị địch tập kích phải ngừng hoạt động nay được phục hồi. Các huyện Vĩnh Thạnh, An Lão, Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Mỹ đều mở các lớp sư phạm cấp tốc đào tạo giáo viên cấp I và các lớp bổ túc văn hóa. Trường phổ thông nội trú Lê Quang Vịnh của tỉnh được mở rộng, thu nhận hàng trăm học sinh cấp I, cấp II.
Năm học 1972-1973, trong vùng giải phóng, ta mở hàng trăm lớp phổ thông với 18.100 học sinh (trong đó có 5 lớp cấp II với 201 học sinh), 600 giáo viên; 110 lớp bình dân học vụ với 2.500 học viên; 17 lớp bổ túc văn hóa với 210 học viên; 6 lớp sư phạm với 100 giáo sinh và 16 lớp sư phạm cấp tốc đào tạo 640 giáo sinh. Cũng trong năm học nầy, Tỉnh mở trường Phổ thông nội trú con liệt sĩ gồm 7 lớp với hơn 290 học sinh, đóng tại xã Bình Quang (Bình Khê). Hàng nghìn quyển sách giáo khoa cấp I, cấp II từ Miền Bắc đưa vào, đã được đánh máy, in rô-nê-ô nhân thành 2.370 bản phân phối cho tất cả các trường, lớp phổ thông trong toàn tỉnh.
Năm học 1974-1975, cả tỉnh có gần 20.000 học sinh phổ thông, trong đó có 810 học sinh cấp II học ở 18 lớp; 3 huyện miền núi có 653 học sinh cấp I. Trường Sư phạm tỉnh có 44 giáo sinh, trường Nội trú dân tộc, trường Nội trú con liệt sĩ vẫn được duy trì.
Trong vùng Mỹ-ngụy kiểm soát
Những năm đầu sau khi tiếp quản tỉnh Bình Định, để được lòng dân, ngụy quyền tỉnh Bình Định cho mở trường cấp III tại Quy Nhơn, trường cấp II ở các huyện đồng bằng và trường câp I ở các xã. Nhưng khi phong trào cách mạng lên cao, giải phóng nhiều vùng miền núi và nông thôn đồng bằng, nhất là từ năm 1960 đến năm 1965, thì công tác giáo dục tại các vùng địch kiểm soát ngày càng thu hẹp, chỉ được duy trì và phát triển tại đô thị Quy Nhơn và các thị trấn-quận lỵ. Theo Địa phương chí Bình Định do Tòa Hành chánh ngụy quyền tỉnh biên soạn thì đầu năm 1965, toàn tỉnh Bình Định có 118 trường, 698 lớp tiểu học công lập với 38.162 học sinh (trong khi tại các vùng giải phóng của ta, số học sinh phổ thông cấp I lên tới 51.215 em). Năm học 1974-1975, trong vùng địch kiểm soát có 133 trường, 1.390 lớp, hơn 68.930 học sinh và 1.298 giáo viên tiểu học; 21 trường, 427 lớp trung học phổ thông và trung học chuyên nghiệp công lập, với 22.769 học sinh; 17 trường phổ thông tư thục và 1 trường bán công với 609 lớp, 13.794 học sinh. Tính chung trong toàn tỉnh, bậc trung học phổ thông và chuyên nghiệp có 39 trường, 1.036 lớp, 36.536 học sinh.
Về quy mô trường trung học công lập, có 2 trường có trên 3.000 học sinh là trường Cường Đễ và trường Nữ trung học Quy Nhơn; có 6 trường dưới 2.000 học sinh; có 4 trường dưới 200 học sinh và 2 trường dưới 100 học sinh (trường Hoài Ân và trường Mai Xuân Thưởng, Bình Khê). Phân bổ theo quận thì Tuy Phước có 5 trường (Tuy Phước, Phước Hậu, Phước An, Diêu Trì, Phước Thạnh); Hoài Ân có 3 trường (Phạm Đăng Hưng, Trần Quang Diệu, Hoài Ân); Bình Khê có 2 trường (Quang Trung, Mai Xuân Thưởng); An Nhơn có 2 trường (Đào Duy Từ, Nhơn Thọ); Phù Mỹ có 1 trường (Lê Chất); Phù Cát có 1 trường (Phù Cát); Bồng Sơn có 1 trường (Tăng Bạt Hổ).
Riêng Quy Nhơn có 4 trường trung học công lập lớn, 1 trường công lập nhỏ (Trường Đống Đa có 11 lớp, 689 học sinh). Bốn trường trung học lớn gồm Trường Trung học Cường Đễ thành lập năm 1955 có 30 phòng học thu nhận 3.000 học sinh, là trường công lập lớn nhất tỉnh; Trường Nữ Trung học Quy Nhơn thành lập tháng 12/1964; Trường Sư phạm Quy Nhơn thành lập tháng 5/1962; Trường Trung học kỹ thuật Quy Nhơn thành lập tháng 6/1962. Ngoài ra, Quy Nhơn còn có 10 trường tư thục, trong đó có nhiều trường thu nhận hàng ngàn học sinh như Trường Trung học Bồ Đề của Phật giáo thành lập năm 1957 có hơn 2.000 học sinh tiểu học và gần 600 học sinh trung học; Trường Trung học Vĩ Nhân của Thiên chúa giáo thành lập năm 1963, đến năm 1972 được mở rộng và xây mới, thu nhận 1.700 học sinh. Các trường tư thục Trưng vương, Tăng Bạt Hổ, Đông Kinh Nghĩa Thục... cũng có đến 600-700 học sinh.
Tuy bị ngụy quyền tay sai của Mỹ quản lý, kiểm sóat rất nghiêm ngặt, nhưng đông đảo giáo viên và học sinh trong tỉnh đều có lòng yêu nước thiết tha, luôn hướng về cách mạng. Năm 1963, khi nổ ra phong trào đấu tranh chống chính quyền Ngô Đình Diệm dàn áp Phật giáo, hàng ngàn học sinh Quy Nhơn, Bồng Sơn, Tam Quan đã rầm rộ xuống đường đấu tranh chống đàn áp Phật giáo. Tháng 5/1969, học sinh các trường trung học ở Quy Nhơn tổ chức bãi khóa, đòi các quyền dân sinh, dân chủ, đòi chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hòa bình. Cuối năm 1970 đầu năm 1971, khi xảy ra vụ lính Mỹ bắn chết hai em học sinh Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Văn Hùng, lập tức, hàng vạn học sinh Quy Nhơn cùng hàng vạn đồng bào thành phố xuống đường biểu tình phản đối cuộc thảm sát và đòi phải trừng trị những tên lính Mỹ phạm tội giết học sinh vô tộis. Tại trường Cường Đễ, ta thành lập Chi đoàn Trần Văn Ơn bí mật hoạt động cách mạng, lập nhiều chiến công xuất sắc.
Thời tái thiết,đổi mới
Sau ngày giải phóng quê hương, mặc dù gặp vô vàn khó khăn, nhưng đi đôi với ổn định đời sống nhân dân, khôi phục sản xuất, tỉnh tập trung mọi nổ lực xây dựng trường học để đông đảo con em nhân dân được đi học.
Vài tháng sau giải phóng, ngành giáo dục tỉnh đã hoàn thành việc tiếp quản, cải tạo, chuyển đổi các trường phổ thông dưới chế độ cũ thành hệ thống giáo dục phổ thông xã hội chủ nghĩa. Trường Trung học Cường Đễ đổi thành Trung học Quang Trung; Trường Nữ Trung học Quy Nhơn đổi thành Trường Trung học Trưng Vương. Trường Trung học Sư phạm và Trường Trung học Kỹ thuật Quy Nhơn vẫn được duy trì.
Ngày 19.10.1975, các trường phổ thông trong tỉnh khai giảng năm học 1975-1976. Năm học nầy, toàn tỉnh có trên 100 trường phổ thông đủ cả 3 cấp, với trên 381.000 học sinh (trong đó có 1.800 con em Bình Định ra Miền Bắc học tập nay trở về quê hương tiếp tục học phổ thông). So với năm học 1974-1975 dưới chế độ cũ, số học sinh phổ thông năm học 1975-1976 tăng 175.000 em. Phong trào bổ túc văn hóa, xóa nạn mù chữ được phát động khắp nơi trong tỉnh, thu hút hàng vạn cán bộ và nhân dân hăng hái đi học. Trong toàn tỉnh có 57 trường bổ túc văn hóa tập trung của tỉnh, huyện thu nhận trên 2.900 học viên cấp I, cấp II
Sau khi hợp nhất hai tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi thành tỉnh Nghĩa Bình, 2 trường sư phạm của 2 tỉnh cũ hợp nhất thành Trường Trung cấp Sư phạm mở tại Quy Nhơn và Trường Cao đẳng Sư phạm mở tại Quảng Ngãi. Bước vào năm học 1977-1978, Trường Đại học Sư Phạm Quy Nhơn được thành lập, đóng tại Quy Nhơn. Đến năm học 1978-1979, trên địa bàn tỉnh Bình Định có 136 trường phổ thông thu nhận hơn 360.000 học sinh các cấp; năm 1979, bình quân 100 người dân có 25 người đi học.
Giai đoạn 1981-1985, nhờ tăng cường đầu tư phát triển giáo dục nên hệ thống trường lớp và số lượng học sinh tăng lên nhanh chóng. Từ 178 trường học với 284.300 học sinh trong năm học 1979-1980 tăng lên 230 trường thu nhận gần 300.000 học sinh 3 cấp trong niên khóa 1980-1981. Năm học 1981-1982, các trường phổ thông cơ sở trong tỉnh bắt đầu thực hiện chương trình cải cách giáo dục lớp I. Hệ thống giáo dục mầm non ngày càng phát triển.
Từ năm 1981, tỉnh chủ động liên kết với các trường đại học và trung học chuyên nghiệp trong nước mở các trung tâm dạy nghề, các lớp hướng nghiệp đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về lao động có tay nghề.
Bước vào thời kỳ đổi mới, phát triển giáo dục-đào tạo cùng với khoa học và công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Bên cạnh sự tăng đầu tư từ ngân sách Nhà nước, tỉnh ra sức đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa giáo dục nên sự nghiệp giáo dục, đào tạo có bước phát triển vượt bậc về mở rộng quy mô, đa dạng hóa các loại hình đào tạo phổ thông, bổ túc, chính quy, liên kết ở tất cả các ngành học, cấp học. Năm học 1986-1987, trên địa bàn tỉnh có 216 trường phổ thông (có 20 trường phổ thông trung học) với 7.111 lớp có 300.000 học sinh (có 191.600 học sinh cấp I; 90.900 học sinh cấp II; 17.500 học sinh cấp III); tổng số giáo viên là 8.016 thầy. Năm học 1990-1991, toàn tỉnh có 300 trường, 7.206 lớp, (có 22 trường, 286 lớp phổ thông trung học), với 260.200 học sinh (cấp I có 185.000; cấp II có 65.500; cấp III có 11.100 em). Ngành mẫu giáo có 42.000 cháu đi học. Đội ngũ giáo viên phổ thông có 8.281 thấy (tiểu học có 4.693, phổ thông cơ sở có 2818, phổ thông trung học có 670 thầy, cô). Năm học 1995-1996, có 342 trường, 7.682 lớp, (có 27 trường phổ thông trung học), với 283.300 học sinh (tiểu học có 179.300; phổ thông cơ sở có 84.900; phổ thông trung học có 19.100 em). Năm học nầy, giáo dục mầm non phát triển mạnh: toàn tỉnh có 132 trường, 1.448 lớp mẫu giáo thu nhận 44.900 cháu. Năm 1995, toàn tỉnh có 8.574 giáo viên phổ thông, trong đó có 5.127 giáo viên tiểu học, 2.686 giáo viên phổ thông cơ sở, 761 giáo viên phổ thông trung học. Đến năm học 2000-2001, số trường phổ thông tăng lên 347 trường (có 45 trường phổ thông trung học); số lớp tăng lên 7.682 lớp; số học sinh các cấp tăng lên 347.900 em (tiểu học có 201.300; phổ thông cơ sở có 104.500; phổ thông trung học có 42.100 em); số giáo viên tăng lên 11.555 thầy (tiểu học có 6.411, phổ thông cơ sở có 3.787, phổ thông trung học có 1.357 thầy). Năm học 2009-2010, toàn tỉnh có 438 trường học (phổ thông trung học có 49 trường, trung học cơ sở có 142 trường, tiểu học có 247 trường) với 307.400 học sinh (phổ thông trung học có 72.500, trung học cơ sở có 109.900, tiểu học có 150.000 em) và 13.789 giáo viên (phổ thông trung học có 2.801, trung học cơ sở có 5.422, tiểu học có 5.766 giáo viên). So năm 2000, số trường tăng lên 161 đơn vị, nhưng số học sinh giảm 40.300 em, chủ yếu là ở bậc tiểu học giảm 76.200 em, trong khi số học sinh trung học cơ sở tăng 5.300, phổ thông trung học tăng 30.600 em; theo đó số giáo viên tiểu học giảm 355 thầy. Số học sinh tiểu học giảm mạnh, số học sinh trung học cơ sở tăng chậm là do tác động tích cực của cuộc vận động kế hoạch hóa gia đình, tỷ lệ sinh giảm, nên số trẻ vào lớp I ngày càng ít hơn trước.
Cấp học phổ thông trung học tăng nhanh: năm học 1976-1977 chỉ có 5 trường với khoảng trên 200 học sinh, năm học 1986-1987 tăng lên 20 trường với 17.500 học sinh, năm học 1990-1991 tăng lên 22 trường với 11.100 học sinh, năm học 2000-2001 tăng lên 45 trường (gồm cả các trường dân lập, tư thục), với 41.900 học sinh và đến năm học 2009-2010 tăng lên 49 trường với 72.500 học sinh. Nghĩa là đến thời điểm nầy, số trường phổ thông trung học tăng gấp gần 10 lần; số học sinh tăng gấp hơn 35 lần so với năm học sau ngày giải phóng; so với năm đầu thực hiện đường lối đổi mới thì số trường phổ thông trung học tăng 2,45 lần, só học sinh tăng trên 1,7 lần..
Năm 1998, tỉnh Bình Định được Bộ Giáo dục-Đào tạo công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ; trên 40% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về phổ cập trung học cơ sở. Các huyện miền núi đều có trường nội trú tiểu học, trung học cơ sở; tỉnh có trường nội trú trung học cơ sở và trung học phổ thông dành riêng cho học sinh dân tộc ít người. Năm 2000, tính bình quân trong toàn tỉnh, cứ 3,5 người dân thì có 1 người đi học; số học sinh bán trú, nội trú ở miền núi chiếm 3,7% so với tổng số đồng bào dân tộc ít người.
Năm 2004, tỉnh Binh Định được công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập trung học cơ sở; 129/155 (82,2%) xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; 149/155 (trên 96%) đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở; 11/11 huyện, thành phố đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Năm học 2004-2005, tỉnh Bình Định có 405.000 học sinh phổ thông các cấp, trong đó có 2.500 học sinh là con em đồng bào thiểu số theo học ở các trường nội trú và bán trú; có 40.000 học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông được học nghề theo chương trình hướng nghiệp hướng nghiệp. Năm học nầy, 100% trường phổ thông cơ sở và phổ thông trung học đều dạy ngoại ngữ; 100% trường trung học phổ thông dạy tin học; các trường tiểu học và trung học cơ sở đạt chuẩn quốc gia, các trường bán trú ngày dạy 2 buổi đều tổ chức dạy ngoại ngữ và tin học.
Nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo giáo viên và đội ngũ lao động có kỹ thuật, từ năm 1980, bên cạnh Trường Công nhân cơ điện, trên địa bàn tỉnh phát triển thêm nhiều trường chuyên nghiệp và dạy nghề trong đó có 6 trường chuyên nghiệp của tỉnh và 3 trương Dạy nghề của Trung ương (Trường Dạy nghề Xây dựng thủy lợi 2, Trường Công nhân cơ khi nông nghiệp 4, Trường Công nhân lâm nghiệp trung ươnag 3). Năm 1991, 6 trường chuyên nghệp của tỉnh được sắp xếp lại còn 4 trường gồm Trường Trung học Sư phạm Bình Định (sát nhập với Trường Sư phạm Mầm non và Trường Cán bộ quản lý giáo dục), Trường Trung học Nông nghiệp, Trường Trung học Văn hóa-Nghệ thuật, Trường Trung học Y tế. Đến năm 2.000 Trường Trung học Sư phạm được nâng lên thành Trường Cao đẳng Sư phạm. Trường Đại học Sư phạm Quy Nhơn được thành lập năm 1977-1978, đến năm 2000, được nâng cấp thành trường đại học đào tạo đa ngành với tên gọi Đại học Quy Nhơn. Năm 2005, thành lập Trường Đại học Quang Trung, trường đại học tư thục đầu tiên của tỉnh Bình Định. Từ 2007-2010, các trường Trung cấp Kỹ thuật Quy Nhơn, Trung cấp Y tế Bình Định được nâng cấp thành trường cao đẳng. Nhờ đó, số học sinh học nghề, trung học chuyên nghiệp và số sinh viên cao đẳng, đại học tăng mạnh. Năm 1990 có 2.200 học sinh học nghề, 800 học sinh trung học chuyên nghiệp, 1.600 sinh viên cao đẳng, đại học; năm 1995, số học sinh học nghề tăng lên 3.200; số học sinh trung học chuyên nghiệp tăng lên 1.600, gấp đôi năm 1990; số sinh viên cao đẳng, đại học tăng lên 6.200, gấp gần 4 lần so với năm 1990. Đến năm 2.000, số học sinh học nghề không tăng, nhưng số học sinh trung học chuyên nghiệp tăng lên 3.200 người, gấp 2 lần năm 1995; số sinh viên cao đẳng, đại học đạt con số kỷ lục:17.000 người, gấp hơn 4 lần năm 1995 và gấp hơn 10 lần năm 1990. Năm học 2009-2010, toàn tỉnh có 33.800 sinh viên, học sinh đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, tăng 23.115 người so với năm 2000; trong đó, số sinh viên đại học tăng mạnh: 16.314 người, cao đẳng tăng 4.282, trung học chuyên nghiệp tăng 2.519 người.
Đến năm 2010, trong ngành giáo dục Bình Định, tỷ lệ giáo viên phổ thông đạt chuẩn và trên chuẩn ở bậc tiểu học và trung học cơ sở là 98,9%; ở bậc phỏ thônag trung học là 100%; trong số có 2.601 giáo viên trung học phổ thông tốt nghiệp đại học và trên đại học, có 88 thạc sĩ, 113 giáo viên đang học cao học; có 1.700 giáo viên trung học phổ thông và 1.500 giáo viên trung học cở sở thực hiện giảng dạy bằng giáo án điện tử; trên 50% số trường trung học phổ thông được trang bị mỗi trường trên 50 máy tính, gần 47,8% trường trung học cơ sở có trên 20 máy tính/trường, 100% trường tiểu học được trang bị máy tính; có 157/169 xã, phường, 100% huyện, thành phố đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Toàn tỉnh có 53,6% số thanh niên trong độ tuổi 18-21 tốt nghiệp trung học phổ thông.
Hiện tại, trên địa bàn tỉnh Bình Định, bên cạnh hệ thống các trường phổ thông, còn có các trường Đại học Quy Nhơn, Đại học tư thục Quang Trung, Trường Cao đẳng Sư phạm Bình Định, Trường Cao đẳng Y tế, Trường Cao đẳng Nghề, Trường Trung học Văn hóa - Nghệ thuật, Trung tâm Đào tạo nghiệp vụ giao thông-vận tải , Trung tâm Giáo dục thường xuyên, Trường Chính trị tỉnh. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có các trường chuyên nghiệp và dạy nghề trung ương, như Trường Cao đẳng Nghề Trung Bộ (hợp nhất 3 trường dạy nghề của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là trường Công nhân kỹ thuật lâm nghiệp trung ương 2, trường Dạy nghề xây dựng, trường Cơ khí nông nghiệp 4). Các trường đại học, cao đẳng và chuyên nghiệp không chỉ thu nhận con em tỉnh Bình Định mà còn thu nhận cả con em các tỉnh Miền Trung và Tây nguyên theo học.
Gò Chàm
Gò Chàm là một khu gò rộng, nằm trên địa bàn huyện Tuy Viễn (nay là huyện An Nhơn), xua kia có dấu tích người Chămpa cổ, nên gọi là Gò Chàm. Từ thời Tây Sơn đến triều Nguyễn, tại Gò Chàm, nhân dân nhóm chợ, gọi là chợ Gò Chàm, sau đổi thành chợ Bình Định tồn tại đến hôm nay.
Gò Chàm là nơi thực dân Pháp và Chính phủ Nam triều tay sai đã hành quyết lãnh tụ phong trào Cần Vương Bình Định là Mai Xuân Thưởng và nhiều thuộc hạ của vị anh hùng họ Mai.
Gò Cớ
Gò Cớ nằm trên địa bàn xã Mỹ Đức, huyện Phù Mỹ. Thời kháng chiến chống Mỹ, Gò Cớ là điển hình của tỉnh Bình Định về dùng 3 mũi giáp công của lực lượng quần chúng nhân dân tại chỗ bức rút cứ điểm địch.
Tại Gò Cớ, năm 1971, Mỹ-ngụy xây dựng một cứ điểm kiên cố với 6 lớp rào kẽm gai dày đặc và hệ thống công sự bao bọc xung quanh. Cứ điểm Gò Cớ do một đại đội bảo an đóng giữ, áng ngự, khống chế cả vùng phía đông huyện Phù Mỹ. Trong 4 ngày, từ 1 đến 4.4.1971, bằng lực lượng 3 mũi giáp công tại chỗ, nhân dân xã Mỹ Đức, được sự hỗ trợ của đồng bào các xã lân cận, đã nổi dậy bao vây, bức rút cứ điểm Gò Cớ vào ngày 4.4.1971. Gò Cớ bị nhổ gây ra phản ứng dây chuyền, hàng chục chốt khác ở các xã phía đông Phù Mỹ đều bức rút.
Gò Dài
Gò Dài thuộc thôn An Vinh, xã Bình An, huyện Tây Sơn là Di tích Vụ thảm sát Bình An do quân đánh thuê Nam Triều Tiên gây ra.
Trong cuộc càn quét kéo dài hơn một tháng, ngày 26.2.1965, quân Nam Triều Tiên đã bắt 380 đồng bào ta từ các nơi trong xã Bình An (Bình Khê) dồn về Gò Dài để giết chết, không sót một ai. Với phụ nữ, sau khi hãm hiếp, chúng dùng lưỡi lê đâm vào cửa mình; với trẻ em, chúng chất rơm, đốt lửa thiêu sống.
Di tích Gò Dài là một ngôi mộ tập thể dài 33 mét, rộng 1,5 mét.
Gò Găng
Gò Găng thuộc xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, xưa kia là một vùng chợ nổi tiếng nón ngựa Gò Găng. Gọi là nón ngựa Gò Găng vì loại nón nổi tiếng của tỉnh Bình Định được bày bán chủ yếu tại chợ Gò Găng, nhưng thật ra thì được làm tại làng Phú Gia (nay thuộc xã Cát Tường, Phù Cát).
Gò Loi
Gò Loi nằm trên địa phận xã Ân Tường, huyện Hoài Ân. Nơi đây còn in đậm dấu tích chiến công oanh liệt của quân dân Bình Định trong chiến dịch tổng hợp Xuân-Hè 1972.
Căn cứ Gò Loi được địch xây dựng kiên cố, do một liên đội bảo an đóng giữ làm tấm chắn phía tây nam quận lỵ Hoài Ân. Mở màn chến dịch Xuân-Hè 1972, rạng sáng ngày 9/4, quân ta nổ súng tấn công đánh chiếm căn cứ Gò Loi, tạo bàn đạp và điều kiện bao vây, tấn công, giải phóng quận lỵ Hoài Ân vào trưa ngày 19.4.1972.
Gò Mả Tổ
Gò Mả Tổ nằm tại thị trấn Đập Đá, huyện An Nhơn, là Di tích kháng chiến chống Mỹ của quân dân Bình Định. Đây là nơi yên nghỉ của 153 cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 12, Sư đoàn 3 Quân Giải phóng đã anh dũng hy sinh trong trận tập kich vào Đập Đá, ngày 19.11.1967, chuẩn bị cho chiến dịch tổng công kích Tết Mậu Thân, 1968.
Gò Quánh
Gò Quánh nằm trên địa bàn huyện Phù Cát, năm 1960, Mỹ-ngụy đã xây dựng một sân bay quân sự quy mô lớn, gọi là Sân bay Gò Quánh, nay là Sân bay Phù Cát.
Tại nơi đây, trong kháng chiến chống Mỹ đã diễn ra nhiều cuộc đấu tranh chính trị trực diện của các tầng lớp nhân dân các xã vùng quanh Gò Quánh chống địch cày ũi mồ mả, nhà cửa, lấn chiếm đất đai của nhân dân để xây dựng sân bay quân sự phục vụ các cuộc càn quét, đánh phá phong trào cách mạng.
Gò Sành
Gò Sành (xưa kia gọi là làng Sành) nằm trên địa bàn thôn Phụ Quang, Nhơn Hòa (An Nhơn) nổi tiếng về gốm Chămpa.
Mùa đông năm 1972, bom Mỹ thả xuống làng Sành, làm lộ diện một kho báu. Đó là một số lò nung gốm cổ, cùng hàng ngàn chum, ché, đĩa, bát, chén, bình... Khi đó, ông Hà Thúc Cẩn đã có bộ sưu tập Gốm Gò Sành. Năm 1988, bà Raxana Brovvn, nhà nghiên cứu gốm cổ Đông Nam Á là người đầu tiên đề cập đến sản phẩm gốm men của người Chăm, có địa danh Gò Sành trong công trình khoa học, luận án tiến sĩ của mình mang nhan đề: “Gốm Đông Nam Á - Niên đại và giám định”. Những năm cuối thế kỷ XX, các nhà khoa học Nhật đến Gò Sành tiến hành nhiều cuộc khai quật với nhiều cấp độ khác nhau.
Nhiều sản phẩm gốm Gò Sành đang được trưng bày, bảo tồn tại Bảo tàng Tổng hợp tỉnh.