K
Kháng chiến chống Pháp
Sau khi Cách mạng tháng 8.1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, ngày 23.9.1945, thực dân Pháp núp dưới bóng quân Anh, nổ súng đánh chiếm Sài Gòn. Tháng 10.1945, địch đánh chiếm Nha Trang rồi mở rộng ra Phú Yên. Theo Lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, trong phong trào “Nam tiến”, hàng nghìn con em Biình Định đã xung phong tòng quân, hăng hái lên đường vào nam kề vai, sát cánh cùng quân dân Nam Bộ chống Pháp xâm lược. Các tầng lớp nhân dân trong tỉnh tích cực quyên góp tiền bạc, lương thực, quần áo, thuốc men gởi bộ đội đang chiến đấu ở Nam Bộ và Nha Trang.
Ngày 10.12.1945, tàu chiến Pháp đột nhập Cù lao Xanh (nay là xã Nhơn Châu), mưu toan đổ bộ lên Quy Nhơn để cùng 50 lính Nhật đang còn chiếm giữ Nhà băng Đông Dương, đánh chiếm thành phố. Ngày 12.12.1945, bộ đội ta tấn công Nhà băng, buộc quân Nhật phải đầu hàng, tàu chiến Pháp phải rút lui. Tháng 7.1946, thực dân Pháp đánh chiếm An Khê, chuẩn bị lập đầu cầu đánh xuống Bình Định.
Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp, Ủy ban Kháng chiến và Ủy ban Ủng hộ kháng chiến được thành lập từ xã đến huyện, tỉnh, trực tiếp làm nhiệm vụ động viên sức người, sức của phục vụ kháng chiến. Tháng 12.1945, phái đoàn Trung ương do đồng chí Lê Văn Hiến dẫn đầu vào tỉnh Bình Định nghiên cứu tình hình; tháng 1.1946, phái đoàn đồng chí Võ Nguyên Giáp vào khảo sát chiến trường, kiểm tra tình hình quân sự; tháng 11.1946, phái đoàn đồng chí Phạm Văn Đồng và cụ Huỳnh Thúc Kháng vào truyền đạt tình hình, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta trước khi bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược.
Ngày19.12.1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. Nhân dân Bình Định, nhất là thị xã Quy Nhơn, khẩn trương tiến hành “tiêu thổ kháng chiến”, phá hủy nhà cửa to lớn, kiên cố, đền chùa, là những nơi mà địch có thể đồn trú, đóng quân, lập căn cứ quân sự. Đề pô Diêu Trì và thành Bình Định bị san bằng. Chỉ trong một thời gian ngắn, thị xã Quy Nhơn trở nên hoang vắng.
Các tuyến đường giao thông huyết mạch như quốc lộ IA, đường 19, các tỉnh lộ Bồng Sơn-An Lão, Cầu Dợi-Kim Sơn, Phù Mỹ-Đề Gi… đều bị xẻ từng đoạn, đào hào, đắp ụ để cản bước tiến của quân thù. Trên các bãi trống, nhân dân dùng tre, cau vườn hoặc cây rừng vót nhọn cắm thành những bãi chông cao đề phòng quân địch nhảy dù. Mặt tây, giáp giới An Khê, nhân dân lập tuyến phòng thủ Tam Bình (Bình Quang, Bình Giang, Bình Tường) rất kiên cố, nhằm ngăn địch từ An Khê đánh xuống; mặt nam, lập tuyến phòng thủ Cù Mông; mặc bắc, lập tuyến phòng thủ Bình Đê. Các xã vùng ven biển Quy Nhơn, Đề Gi, Tam Quan đều xây dựng nhiều tuyến phòng thủ và công sự chiến đấu. Nhân dân Phù Cát xây dựng tuyến Mỹ Hóa-Chợ Gồm; Hoài Nhơn xây dựng tuyến đèo Bằng Lăng-Bình Đê; Vân Canh xây các chốt (tác chiến điểm) ở Núi Một, Hòn Súng. Ở những nơi hiểm yếu như Chợ Gồm (Phù Cát), Phủ Cũ, Đèo Nhông (Phù Mỹ), Bình Đê (Hoài Nhơn), Núi Một, Núi Ngang (Bình Khê) đều có xây dựng trận địa chiến đấu. Dọc đường 19, nhân dân bố phòng bằng trận địa hầm chông được nghi trang rất kín đáo.
Hệ thống làng chiến đấu được xây dựng khắp nơi. Làng chiến đấu các huyện miền núi Vĩnh Thạnh, Vân Canh, An Lão đều có bố trí hệ thống chông thò, cạm bẩy, bẩy đá. Làng chiến đấu đồng bằng được xây dựng liên hoàn giữa thôn nầy với thôn khác. Tại thị xã Quy Nhơn, hệ thống công sự chiến đấu được xây dựng trên các con đường lớn, nhất là đường Gia Long (nay là Trần Hưng Đạo); các tường nhà đều được đục thông, tạo thành hành lang cơ động chiến đấu. Trên các mỏm núi, các trạm gác, có treo bồ, khi có địch đến thì báo hiệu cho nhân dân biết chuẩn bị đối phó. Gia đình nào cũng đào hầm trú ẩn phòng máy bay hay tàu chiến địch bắn phá.
Người già, phụ nữ và trẻ em ở thị xã Quy Nhơn và các thị trấn nằm trên quốc lộ IA và đường 19 như Bồng Sơn, Bình Định, Đập Đá, Phú Phong đều được tản cư về các vùng nông thôn. Cơ quan, trường học, kho tàng, máy móc trong thành thị cũng được chuyển về nông thôn.
Đi đôi với tăng cường bố phòng, xây làng và phòng tuyến chiến đấu, Tỉnh tăng cường xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân địa phường, giáo dục nhân dân nâng cao ý thức phòng gian, bảo mật..
Thời kháng chiến chống Pháp, về căn bản, tỉnh Bình Định là vùng tự do nên toàn dân dốc sức đẩy mạnh phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội, thi đua tăng gia sản xuất lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu, đảm bảo đủ trang trải nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong tỉnh, đồng thời cung cấp cho bộ đội và tiền tuyến. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế phát triển mạnh, dẫn đầu các tỉnh khu V.
Nhờ chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu cao, nên quân dân tỉnh Bình Định đã đánh bại các cuộc hành quân càn quét, lấn chiếm của thực dân Pháp.
Cuối năm 1946, bộ đội ta bao vây, quấy rối cứ điểm Gia Hội-Thượng An; đánh sập cầu, đắp ụ chướng ngại vật, cắm chông, cài mìn trên đường 19. Đầu năm 1947, Trung đoàn 95 do Trung đoàn trưởng Vi Dân chỉ huy đưa lực lượng lên phối hợp với quân dân tỉnh Gia Lai đẩy mạnh hoạt động vào An Khê, thường quyên quấy rối địch. Ngày 13.4.1947, Trung đoàn 95 tấn công cứ điểm Tú Thủy, nhưng vì bị bại lộ nên tổn thất nặng nề. Trung đoàn trưởng Vi Dân hy sinh.
Ngày 2.7.1947, 2.000 quân Pháp có đại bác, xe tăng yểm trợ chia làm 3 cánh đánh xuống Phú Phong. Cả 3 cánh quân đều bị quân ta chặn đánh, tiêu diệt trên 350 tên tại Định Nhì, Định Quang và đèo Bồ Bồ. Trong khi đó, hậu cứ An Khê của địch bị đại đội Tây Sơn liên tục đánh phá. Sau 4 ngày hành quân không thể nào chiếm đóng vùng tự do Bình Định, quân số lại bị thương vong ngày càng lớn, địch buộc phải rút hết quân về căn cứ An Khê.
Giữa tháng 11.1947, quân Pháp từ An Khê lại kéo xuống đánh chiếm Bình Khê. Đại đội 51A do đồng chí Quách Tử Hấp chỉ huy, được giao nhiệm vụ tổ chức phục kích đánh địch ở khu vực Suối Vối-Rộc Dừa. Lực lượng đánh địch gồm 3 tổ, trong đó có tổ đánh bom gồm 3 chiến sĩ. Khi địch lọt vào trận địa phục kích thì quân ta nổ súng. Quân Pháp dùng hỏa lực mạnh ào ạt tấn công quân ta. Trước tình hình quân ta vô cùng nguy khốn, chiến sĩ Ngô Mây, cổ quàng khăn đỏ, bật dậy, ôm bom lao thẳng vào đội hình địch. Bom nổ, hơn 40 tên lính Âu Phi và 2 xe địch bị tan xác. Quân Pháp vội tháo chạy.
Thực thi chính sách “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”, đầu năm 1948, quân Pháp tăng cường đánh phá hậu phương kháng chiến của ta, ra sức vơ vét của cải và bắt lính. Giữa năm 1948, địch mở cuộc tấn công càn quét quy mô lớn vào khu vực Phù Ly (Phù Cát) để nối hành lang quốc lộ IA với cửa biển Đề Gi. Chúng huy động 10 máy bay đa-cô-ta thả hơn 200 tên lính nhảy dù xuống cánh đồng Khánh Lộc (xã Cát Hanh, Phù Cát) và An Lạc (xã Mỹ Hòa, Phù Mỹ). Tại cửa Đề Gi, tàu chiến Pháp cho đổ bộ 2 đại đội chia làm 2 cánh theo trục Đề Gi-Chợ Gồm (Phù Cát) và Đề Gi-An Lương (Phù Mỹ) để hợp điểm tại Phù Ly.
Ngay sau khi vừa đặt chân lên đất liền, quân Pháp đã bị các lực lượng vũ trang ta, trong đó có một bộ phận đáng kể dân quân, du kích xã chặn đánh tơi tả, địch phải tháo chạy.Cuộc hành quân quy mô hải, lục, không quân của Pháp đánh vào hậu phương ta bị thất bại hoàn toàn.
Năm 1949, thực dân Pháp càng lâm vào thế bị động, lúng túng, nhưng vẫn liều lĩnh mở cuộc hành quân đánh vào Tam Quan, một vùng đông dân, trù phú, có ga xe lửa và kho tàng của ta. Khoảng 1 giờ sáng ngày 20.7.1949, quân Pháp cho tàu chiến bất ngờ đổ bộ lên biển Tam Quan. Chúng chia làm 3 cánh, lấy ga Tam Quan làm hợp điểm.
Quân ta linh hoạt phân tán thành từng đơn vị nhỏ, phục kích chặn đánh địch khắp nơi. Tại Chợ Cát, du kích Tam Quan, Hoài Hảo phối hợp với Tiểu đoàn 50 tấn công địch mãnh liệt, diệt 180 tên. Quân địch ở Trường Xuân, Tân Thạnh, Chương Hòa bị đánh tơi tả. Ngày 21.7.1949, ta dùng pháo 75 ly, cối 81 ly tập kích vào sở chỉ huy địch tại ga Tam Quan, tiêu diệt và làm bị thương hàng trăm tên. Bị đánh đòn đau liên tục, thực dân Pháp đành phải mở đường rút quân xuống tàu biển tháo chạy.
Từ năm 1951, thực dân Pháp tăng cường dùng máy bay khu trục đánh phá các thị trấn đông dân, cầu, ga xe lửa như ở Chương Hòa, Bồng Sơn (Hoài Nhơn), Nhà Đá (Phù Mỹ), Phù Ly (Phù Cát); dùng bom na pan tàn phá ruộng vườn, nhà cửa, ghe thuyền, chài lưới của nhân dân ta ở nhiều vùng nông thôn và miền biển như An Thái (An Nhơn), Phú Lạc (Bình Khê), Tân Phụng (Phù Mỹ). Đồng thời, địch mở các cuộc càn quét vào vùng tự do Bình Định. Tháng 4.1952, địch cho tàu chiến đổ quân lên Quy Nhơn cướp phá ghe thuyền của nhân dân, bị quân ta chặn đánh, chúng buộc phải rút lui. Tháng 7.1952, địch từ An Khê đánh xuống Bình Giang, đốt phá nhà cửa, cướp bóc tài sản của nhân dân. Bị quân dân ta giáng trả quyết liệt, tiêu diệt nhiều sinh lực, chúng phải tháo chạy.
Bước vào chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, trong thế bị động đối phó, nhằm cứu vãn sự thất bại ở Tây Nguyên trong chiến dịch At-lăng, ngày 12.3.1954, thực dân Pháp cho 8 tiểu đoàn nòng cốt của binh đoàn số 10 từ Pháp sang, đổ bộ lên Quy Nhơn, tạo bàn đạp đánh phá một số nơi ở huyện Tuy Phước như Lòng Sông, Trường Úc, cầu Sông Ngang, Phú Tài. Mặt khác, các binh đoàn 41, 42 của địch từ Phú Yên đánh ra. Cả 2 cánh quân địch đều bị du kích và bộ đội địa phương ta chặn đánh quyết liệt; tiêu diệt và làm bị thương 530 tên, có 300 tên bị sập hầm chông. Bị chặn đánh liên tục, từ ngả ba Phú Tài, quân Pháp phải mất 12 ngày mới đến được Diêu Trì. Gần 800 tên địch của 4 tiểu đoàn cơ động Pháp đổ bộ lên Bãi Xếp (nam Quy Nhơn), 4 tiểu đoàn khác đổ bộ lên Phước Hải (bắc Quy Nhơn) cũng bị quân dân ta đánh tơi tả; diệt hàng trăm tên tại Gành Ráng. Đặc biệt, đêm 3.4.1954, một bộ phận đặc công do đội trưởng Lục Đức Đèn chỉ huy bí mật tập kích Nhà hát Trung Hoa (nay là khu vực Khách sạn Điện ảnh) diệt 200 tên sĩ quan và binh lính địch.
Bị động và thua đau, ngày 4.4.1954, quân Pháp rút toàn bộ lực lượng ở Tuy Phước về cố thủ tại Quy Nhơn, luôn bị quân dân ta siết chặt vòng vây. Mãi đến tháng 6.1954, khi quân dân ta đại thắng tại Điện Biên Phủ, chúng mới rút chạy hết.
Trong hơn 3 tháng (từ 13.3 đến 18.6.1954) giáng trả bước 2 chiến dịch At-lăng của địch với âm mưu đánh chiếm Quy Nhơn và Bình Định bằng các cánh quân đổ bộ từ biển lên, từ Phú Yên đánh ra, từ An Khê đánh xuống, quân dân Bình Định đã loại khỏi vòng chiến đấu 2.673 tên địch, có 1.400 tên bị diệt; thu nhiều vũ khí, đạn dược.
Chiến thắng Đông Xuân 1953-1954 của quân dân Bình Định góp phần cùng quân dân cả nước đánh thắng hoàn toàn giặc Pháp xâm lược với chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, là điểm son chói lọi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp.
Kháng chiến chống Mỹ
Có thể phân chia giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Bình Định thành 5 thời kỳ:
I)- Đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ; chống “tố Cộng, diệt Cộng”; bảo vệ, khôi phục, phát triển thực lực cách mạng, tiến lên khởi nghĩa từng phần (1955-1960)
Sau khi tiếp quản tỉnh Bình Định, địch áp đặt bộ máy cai trị từ tỉnh đến cơ sở. Cấp tỉnh, địch thành lập Tòa Hành chính và các ty trực thuộc; các huyện đồng bằng đổi thành quận, 3 huyện miền núi đổi thành nha (đến năm 1958, đổi thành quận); cấp xã lập Hội đồng Hương chính (năm 1957 lập Ủy ban Hành chính xã). Các thôn xóm, khóm ấp đều có bộ máy cai trị, kìm kẹp rất chặt chẽ; tất cả các hộ gia đình đều được ghép thành từng liên gia, 5, 10 hộ một liên gia, gọi là “ngũ gia liên bảo”, “thập gia liên bảo”. Năm 1956, trên địa bàn tỉnh có 117.871 liên gia.
Thành phần chủ chốt trong bộ máy hành chính các cấp của địch là những tên tay sai phản động, chống cộng, những phần tử lợi dụng tôn giáo, những tên địa chủ bất mãn với chính quyền cách mạng thời kháng chiến.
Lực lượng quân sự của địch những năm 1955-1956 gồm Sư đoàn dã chiến số 32 với 2 trung đoàn bộ binh, đóng giữ 115 chốt ở hầu hết các huyện trong tỉnh. Ở cấp xã, địch thành lập xã đoàn dân vệ có từ 1 trung đội đến 1 đại đội dân vệ (về sau gọi là nghĩa quân xã). Bộ máy công an được thiết lập từ tỉnh đến cơ sở: cấp tỉnh gọi là ty, cấp huyện gọi là chi, cấp xã gọi là cuộc. Mạng lưới mật vụ, tình báo, gián điệp được tổ chức, cài cấy xuống tận thôn xóm, khóm ấp, liên gia. Ngoài ra, còn có các đoàn thể phản động như Thanh niên Cộng hòa, Thanh niên Chống Cộng, Phụ nữ Liên đới.
Ngay những ngày đầu mới tiếp quản, địch coi tỉnh Bình Định là một trong những trọng điểm đánh phá trên toàn Miền Nam. Chúng vạch ra kế hoạch đánh phá mang tên “Chiến dịch Giải phóng” và lập ra cái gọi là “ôUỷban Giải phóng tỉnh Bình Định” do Tôn Thất Đính, một tên tay sai khét tiếng thời Pháp cầm đầu. Ngày 27.5.1955, 12 ngày sau khi ta bàn giao cho đối phương khu vực tập kết 300 ngày cuối cùng ở khu vực Miền Trung, Ngô Đình Diệm trực tiếp đáp máy bay ra Quy Nhơn thị sát tình hình và chỉ đạo thành lập hệ thống chính quyền từ tỉnh đến cơ sở nhằm đảm bảo thực thi chính sách trả thù những người kháng chiến cũ và đảng viên Cộng sản còn ở lại tại các xã, phường trong tỉnh. Cuối tháng 5.1955, Ngô Đình Diệm phát động chiến dịch “tố Cộng, diệt Cộng” với khẩu hiệu “Khui trục cán bộ nằm vùng, tiêu diệt Cộng sản”,”Thà giết lầm hơn bỏ sót”. Chúng coi đây là quốc sách, là biện pháp chiến lược chủ yếu để đàn áp, tiêu diệt phong trào yêu nước và lực lượng cách mạng của nhân dân ta.
Địch tiến hành “thanh lọc”, phân chia nhân dân làm 3 loại để khống chế, đàn áp. Loại A gồm những cán bộ chủ chốt trong kháng chiến từ cấp xã trở lên có thể bị chúng bắt, tra tấn hoặc thủ tiêu bất cứ lúc nào không cần qua xét xử. Loại B gồm cán bộ thôn, đảng viên Cộng sản, gia đình có người thân tập kết ra Bắc, bị chúng quản thúc nghiêm ngặt, ban đêm phải ngủ tập trung có dân vệ canh gác. Loại C gồm hội viên, đoàn viên trong kháng chiến, bị chúng quản thúc tại chỗ, thường xuyên phải đi xâu dịch.
Đối với dân thường, địch bắt lập hộ khẩu, thẻ kiểm tra và chia làm 3 hạng, mỗi hạng có ký hiệu riêng dán ở trước cửa ra vào: hạng tình nghi ký hiệu vòng tròn màu đen; hạng lưng chừng ký hiệu vòng tròn nửa đen nửa trắng; hạng tốt ký hiệu vòng tròn màu trắng.
Địch thiết lập bộ máy chỉ đạo “tố Cộng, diệt Cộng“ từ tỉnh xuống xã. Cấp tỉnh và huyện do Tỉnh trưởng, Quận trưởng trực tiếp điều hành. Cấp xã do “Tuần hành Dân vụ” đứng đầu.
Quyền tự do đi lại của nhân dân bị cấm đoán nghiêm ngặt; tụ tập 3-5 người trở lên được xem là bất hợp pháp; tổ chức cưới hỏi, ma chay, giỗ chạp, lễ hội đều phải xin phép chính quyền. Địch khuyến khích phát triển các tôn giáo, nhất là Thiên Chúa giáo, xây dựng nhiều nhà thờ; ra sức phát triển cái gọi là “Phong trào cách mạng quốc gia”, thành lập các tổ chức phản động như “Thanh niên Cộng hòa”,”Phụ nữ Liên đới”. Mặt khác, địch dùng tiền bạc, vật chất để mua chuộc, dụ dỗ, phân hóa những người kháng chiến, cô lập những người trung kiên.
Đối với các huyện miền núi, địch chủ yếu dùng mật vụ, tề điệp giả danh thương lái lên dò xét, do thám tình hình, dùng hàng hóa (gạo, muối, vải vóc, thuốc chữa bệnh...) để mua chuộc nhân dân, nhất là các già làng. Mặt khác, tùy từng lúc, từng nơi, địch kết hợp sử dụng lực lượng quân sự tổ chức các trận càn quét, lùng sục các vùng giáp ranh giữa đồng bằng và miền núi.
Nhằm kích động nhân dân “chống Cộng”, địch mở liên tiếp các cuộc mit ting “tố Cộng” và buộc mọi người dân phải tham gia. Trong 505 cuộc mit ting đấu tố trên địa bàn tỉnh, có 4.182 người bị tố giác là “Việt Cộng”. Mặt khác, địch còn buộc những cán bộ, đảng viên và những người đã tham gia kháng chiến phải dự các cuộc “tẩy não” ở quận, liên xã, xã. Tại các lớp học nầy, ban ngày mọi người phải chào cờ quốc gia, tri ân Ngô Tổng thống, xé cờ Đảng Cộng sản, cờ Đỏ sao vàng, xé ảnh Hồ Chủ tịch; ký vào tờ ly khai Đảng, tố giác đồng chí mình; ban đêm bị buộc phải quỳ trước bàn thờ có ảnh Ngô Đình Diệm để “sám hối”. Ai chịu nghe lời thì được làm các thủ tục quy hàng, khuất phục và được thả về; còn đối với những người kiên trung không chịu khai báo, ly khai thì bị tra tấn cực hình, bị lưu đày hay thủ tiêu. Đối với những gia đình có người thân tập kết, địch buộc ông bà, cha mẹ phải làm giấy từ con, cháu; vợ phải ly hôn chồng.
Giai đoạn I chiến dịch “tố Cộng, diệt Cộng” được Diệm tiến hành từ cuối tháng 5.1955 đến tháng 6.1956 đã biến nhiều chùa chiền, miếu mạo, trường học ở các làng xã thành những trại giam, những nơi đánh đập, tra tấn dã man những người kháng chiến, những người dân yêu nước. Nỗi lo sợ, kinh hoàng đè nặng lên cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân; không khí khủng bố, hận thù bao phủ mọi nơi. Trong vòng 1 năm. đã có 20.000 người bị bắt vào các trại giam, nhà tù từ tỉnh đến xã; chỉ riêng tại nhà tù ở quận Bồng Sơn đã có 500 người bị bắt giam. Địch đã gây ra hàng loạt các vụ thảm sát man rợ, điển hình như vụ thảm sát 72 người ở nhà thờ Thác Đá (xã Hoài Đức, Hoài Nhơn), trong đó có 38 người bị địch lấy cuốc đập đầu, rồi thả xuống giếng lấp lại; vụ An Đông (Bồng Sơn) có 40 người bị địch lấy tre kẹp cổ và chôn sống; vụ 25 người bị địch thắt cổ bỏ vào bao và ném xuống biển Tam Quan; vụ địch giết một lúc 23 người ở gần đồn An Lão, Ân Hòa (Hoài Ân); vụ địch đập chết một lúc 13 người rồi bỏ xác xuống giếng lạng ở Gò Dú (Tân Thạnh, Ân Tường, Hoài Ân). Tại các cuộc “tố Cộng” ở các xã Cát Nhơn (Phù Cát), Phước An (Tuy Phước), Nhơn Hưng (An Nhơn), địch đánh chết tại chỗ hơn 40 cán bộ, đảng viên; tra tấn dã man hàng chục người khác về đến nhà thì chết hoặc tàn phế.
Giai đoạn II chiến dịch “tố Cộng” (tháng 7.1956 đến năm 1957), với âm mưu, thủ đoạn thâm hiểm hơn, trọng điểm đánh phá là vùng giáp ranh giữa đồng bằng và miền núi, địch mở liên tiếp các cuộc hành quân càn quét, lùng sục, khui trục cán bộ cách mạng “nằm vùng”. Đầu năm 1957, Mỹ-Diệm “đặt Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, sau đó ban hành Luật phát xít10/59, lập tòa án quân sự đặc biệt, lê máy chém đi khắp Miền Nam.
Từ tháng 5.1955 đến năm 1957, đã có 117 cán bộ lãnh đạo chủ chốt của tỉnh ở lại hoạt động bị địch bị bắt. Phong trào cách mạng tỉnh nhà bị tổn thất, suy thoái nặng nề; nhân dân luôn sống trong không khí ngột ngạt, nghẹt thở của sự đàn áp. Những thủ đoạn, biện pháp đánh phá thâm hiểm, xảo quyệt, man rợ của địch đã gây biết bao đau thương, tang tóc trong các tầng lớp nhân dân; không chỉ vô hiệu hóa một bộ phận lực lượng cách mạng và các lực lượng đối lập với Mỹ-ngụy, mà còn tạo nên tâm lý hoang mang, nghi kỵ, chia rẽ trong nhân dân, trong gia đình, phá vỡ mối quan hệ gia đình, làng xóm.
Có thể coi giai đoạn 1955-1957 là thời kỳ bị tổn thất nặng nề nhất, khó khăn, đen tối nhất của cách mạng Miền Nam nói chung và Bình Định nói riêng.
Đi đôi với đàn áp, khủng bố, Mỹ-Diệm thực hiện chính sách cải cách điền địa giả hiệu, tịch thu 600.000 mẫu ruộng đất công mà chính quyền cách mạng đã chia cho nông dân thời kháng chiến, cho đem đấu giá bổ sung vào ngân sách xã. Còn ruộng đất của địa chủ, Việt gian bị ta tịch thu thì chúng đem trả lại cho chủ cũ. Địch ép buộc nông dân các địa phương trong tỉnh phải từ bỏ quyền sở hữu ruộng đất được chia thời kháng chiến chống Pháp và phải ký 31.556 khế ước với địa chủ. Địch còn ép buộc nông dân phải ký giấy trả lại lúa tô, ruộng lĩnh canh, quay lại làm thuê cho địa chủ; buộc cán bộ cách mạng phải trả lại lúa, trâu bò được chia thời kháng chiến, người nào đã đi tập kết thì gia đình phải trả lại. Để dễ bề kiểm soát, nhất là nhằm tách nông dân ra khỏi “Việt Cộng”, từ năm 1957, Mỹ-Diệm thực thi chính sách “dinh điền”. Chỉ trong vòng nửa tháng (24.4-10.5.1957), địch đã cưỡng bức 76 gia đình nông dân trong tỉnh đi dinh điền ở Tây Nguyên và Phước Long. Tiếp đó, từ tháng 4 đến tháng 12/1958, chúng tổ chức 6 đợt cưỡng bức dinh điền, buộc 7.632 nông dân, phần lớn là các gia đình kháng chiến thời chống Pháp phải rời bỏ quê hương.
Để kiểm soát tài sản và bóc lột nông dân, Mỹ-Diệm cho thành lập các hợp tác xã, nông tín cuộc, hiệp hội nông dân. Trên địa bàn toàn tỉnh, có 13 hợp tác xã; 4 quận Tuy Phước, An Nhơn, Phù Mỹ và Hoài Nhơn thành lập hiệp hội nông dân với 709 chi hội, 24.395 hội viên, có số vốn cổ phần là 373.370 đồng tiền Sài Gòn. Mặt khác, địch còn thực thi chính sách gia tăng thuế khóa nặng nề. Thuế ruộng đất năm 1957 tăng gấp đôi so với năm 1956; nông dân canh tác ruộng đất công nộp hoa lợi từ 25% tăng lên 50%. Những năm 1958-1960, nông dân phải đóng góp trên 20 thứ thuế và nhiều loại cước phí vô lý như phí làm bốt gác cho dân vệ, phí làm bản tin, tiền mua ảnh Diệm, phí làm thẻ kiểm tra, thẻ cử tri, tiền xây trụ sở, phụ thu thuế vườn. Ngoài ra, mỗi người dân còn phải đóng góp 7-10 ngày công lao dịch, đi xâu...
Trước những bức xúc về đời sống chính trị, tinh thần bị chà đạp, nhân dân nhiều nơi trong tỉnh đã dựa vào tính pháp lý của Hiệp định Giơ-ne-vơ, đấu tranh chống lại những hành động của chính quyền Mỹ-Diệm đàn áp, khủng bố, trả thù những người kháng chiến cũ, cưỡng bức nhân dân bỏ sản xuất, tập trung đi học “tố Cộng”, theo đạo Thiên Chúa. Đi đầu và làm nòng cốt cho phong trào nầy là lực lượng thanh niên. Tháng 7.1955, Đoàn Thanh niên Yêu nước, Thanh niên chống Mỹ được thành lập ở Cát Hanh (Phù Cát) sau đó lan nhanh đến các xã Bình Quang, Bình Giang (Bình Khê), Mỹ Hiệp (Phù Mỹ), Hoài Sơn (Hoài Nhơn) với 20.000 đoàn viên. Đi đôi với đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, bất chấp mọi âm mưu, thủ đoạn kiểm soát, khủng bố của kẻ thù, nhân dân tìm mọi cách che giấu, bảo vệ các cán bộ cách mạng, các đảng viên Cộng sản; giúp đỡ các gia đình có người thân đi tập kết; chị em có chồng, con đi tập kết cùng nhau đoàn kết, cương quyết chống địch cưỡng ép ly hôn, từ bỏ con cái.
Trong phong trào chống địch “tố Cộng, diệt Cộng” vô cùng khốc liệt, đầy tổn thất, hy sinh, tuy có một bộ phận nhỏ hoang mang, dao động, mất tinh thần, thậm chí đầu hàng, phản bội, nhưng tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng vẫn kiên định một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ, thà chết chứ không khuất phục quân thù. Những cán bộ kiên trung như Lê Đình Giao, Phạm Tiến, Hồ Văn Nghi, Trần Châu, Trần Độc, Nguyễn Chí Thành, Nguyễn Thành Tân, Nguyễn Mại...bị giặc bắt, tra tấn cực hình cho đến chết vẫn không hề khai báo; Nguyễn Khắc Nương, Trần Quang Quý, Võ Cường, Lê Ngạn, Hồ Thị Hoàng Anh, Đinh Thị Vỹ, Nguyễn Thị Thế Ngân...bị địch tra tấn chết đi sống lại, vẫn không chịu chào cờ “ba que”, không hô “Tri ân Ngô Tổng thống”, không xé cờ Tổ quốc, không ly khai Đảng, không tố giác đồng chí mình. Ông Tạ Khẩn, một trí thức, cán bộ ngoài Đảng, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chánh-Kháng chiến thị xã Quy Nhơn (1952-1954) bị địch tra tấn đến què quặt vẫn cắn răng chịu đựng, không hề khai báo, và cuối cùng đã hy sinh tại nhà lao Nha Trang. Người thanh niên tuổi trẻ, chí lớn Tô Phùng bị địch bắt nhiều lần, nhưng mỗi lần ra khỏi tù là tìm cách móc nối, gây dựng cơ sở để hoạt động cách mạng.
Trong các nhà tù địch, cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng liên tiếp tổ chức các cuộc đấu tranh chống chế độ lao tù phi nhân tính. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của 18 tù nhân chính trị tại xà lim số 1 nhà lao Hòa Thoại (nay là nhà số 9 Đào Duy Từ, Quy Nhơn) nổ ra từ ngày 18 đến ngày 24.4.1957, quyết liệt chống địch bắt nhốt 30 người trong một phòng giam chỉ có 10 m2 và đòi cải thiện chế độ sinh hoạt của tù nhân. Cuộc đấu tranh đã được tù nhân các trại giam khác và quần chúng nhân dân Quy Nhơn đồng tình, ủng hộ. Trước phong trào đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của tù chính trị các nhà lao Quy Nhơn, ngụy quyền Bình Định gấp rút xây dựng một nhà lao mới ở Gành Ráng, đồng thời chuyển một số tù chính trị ở nhà lao Quy Nhơn đến các nhà lao Thừa Phủ, khám Chí Hòa và đày một số khác ra Côn Đảo (từ tháng 4.1957 đến tháng 1.1958 có 110 người bị đày ra Côn Đảo).
Tức nước vỡ bờ. Từ giữa năm 1957, bắt đầu xuất hiện lẻ tẻ hình thức đấu tranh bạo lực mang tính tự vệ. Tháng 8.1957, tiếng súng giáng trả địch đầu tiên nổ ra ở xã Cát Hiệp (Phù Cát). Tiếp đó, tiếng súng diệt ác nổ ra ở xã Hoài Thanh huyện Hoài Nhơn (tháng 10.1957); Nước Ly huyện An Lão (tháng 7.1958); Canh Lồ huyện Vân Canh (cuối năm 1958)... mở đầu một giai đoạn đấu tranh mới, chính trị, vũ trang song song.
Năm 1958, phong trào chống địch dồn dân diễn ra mạnh mẽ, liên tục ở các huyện miền núi. Tại Vĩnh Thạnh, tháng 8.1958, nổ ra cuộc đấu tranh quyết liệt của nhân dân xã Vĩnh Hiệp, chống địch khủng bố đồng bào, truy nã lực lượng cách mạng. Cuộc đấu tranh kéo dài suốt 3 ngày đêm, đã giành lại được một số người bị địch bắt giam. Để chống địch bắt lính, thanh niên nhiều làng ở Vĩnh Thạnh, đã lập trại bí mật ở trong rừng sâu để sản xuất, sinh sống; nhân dân các xã Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo tổ chức định cư tại vùng cao, vùng sâu. Tại An Lão, đồng bào các xã vùng cao tổ chức ăn thề, lập tự vệ mật, bố phóng chống địch càn quét, dồn dân. Tại Vân Canh, từ 7 đến 17.11.1958, địch mở các cuộc hành quân càn quét các xã Canh Lồ, Canh Phong và Canh Thông, đồng bào các dân tộc ít người đã cắm chông cản đường, kiên quyết bất hợp tác và chống địch mua chuộc, làm thất bại âm mưu dồn dân của địch.. Trong trận càn ở Canh Lồ, Suối Các, Kon Lót, tự vệ ta đã anh dũng nổ súng đánh địch. Một số làng ở vùng cao Vân Canh dời làng vào rừng sâu, bố phòng rào làng chiến đấu chống địch. Đặc biệt, cơ sở cách mạng làng Hà Lũy đã bí mật diệt 1 tên công an quận.
Ở các huyện đồng bằng, phong trào cách mạng bắt đầu có những chuyển biến tích cực. Các huyện An Nhơn, Tuy Phước và thị xã Quy Nhơn bắt đầu khôi phục, củng cố cơ sở cách mạng ở các xã có phong trào yếu. Nhân dân xã Hoài Thanh (Hoài Nhơn) liên tiếp tổ chức các cuộc đấu tranh chống địch cưỡng bức đi “ dinh điền ”, ” quân dịch ”; đồng bào lăn xả vào đầu xe cơ giới của địch, ngăn cản không cho bắt người. Hàng trăm chị em tiểu thương ở chợ Ân (Tam Quan Nam, Hoài Nhơn) dùng đòn gánh quyết liệt chống lại bọn dân vệ cướp cá và hàng hóa của dân. Phụ huynh học sinh trường Phương Danh (Đập Đá, An Nhơn) đấu tranh chống địch ép buộc con em mình phải hiến máu cung cấp cho quân ngụy.
Từ sau khi quán triệt Nghị quyết 15 (tháng 1.1959) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phong trào cách mạng Bình Định bước vào giai đoạn đấu tranh mới, mở đầu bằng cuộc khởi nghĩa Vĩnh Thạnh.
Ngày 6.2.1959, nhân dân các làng Tơ Lok, Tơ Lét, Hà Ri, Kơ Triet, Kon Ron, Con Yoong, Kon Ronia, Kon Dil và Kơ Nang thuộc 2 xã Vĩnh Hiệp và Vĩnh Hảo, huyện Vĩnh Thạnh nhất loạt vùng lên đấu tranh quyết liệt chống âm mưu dồn dân của ngụy quyền quận. Đồng bào bí mật dời làng vào vùng sâu, chỉ để lại lực lượng thanh niên bố phòng chiến đấu. Đầu tháng 5/1959, địch liên tiếp mở các trận càn lớn vào các xã Vĩnh Hiệp, Vĩnh An, Vĩnh Bình nhằm tiêu diệt phong trào cách mạng địa phương. Nhân dân và du kích đã dùng vũ khí thô sơ, tự tạo, dũng cảm chống lại, tiêu diệt 30 tên địch tại làng Tơ Lok. Các làng khác đều tổ chức rào làng, bố phòng chống địch càn quét. Tháng 6.1959, trên 5.000 dân 60 làng của tất cả 9 xã trong huyện (trừ xã Vĩnh Bình), có lực lượng vũ trang yểm trợ, nhất tề đứng lên bẻ gãy các cuộc càn quét, đập tan âm mưu dồn dân của địch, giành quyền làm chủ núi rừng, làng xã.
Cuộc nổi dậy của nhân dân Vĩnh Thạnh giành quyền làm chủ ở cơ sở là thắng lợi của cuộc khởi nghĩa từng phần đầu tiên ở tỉnh Bình Định và Khu V, chẳng những tạo thế và lực mới mà còn mở ra hướng phát triển mới của phong trào cách mạng tỉnh nhà là đẩy mạnh đấu tranh chính trị, vũ trang song song, giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Hòa nhịp với phong trào cách mạng Vĩnh Thạnh, từ tháng 1 đến tháng 3.1959, nhân dân các làng Cà Bông, Ma Khao, Ma Găm, Ma Quân, huyện Vân Canh tổ chức rào làng và lập các đội tự vệ mật để bảo vệ bản làng. Đến tháng 5.1959, phong trào lan sang 4 xã vùng cao Canh Lồ, Canh Phong, Canh Thông, Canh Hòa. Nhân dân làng Suối Mây nổi dậy vũ trang diệt 7 tên địch; riêng già làng Pơ Rang, ngoài 90 tuổi, một mình một ná bắn chết 4 tên. Đầu năm 1960, nhân dân huyện An Lão vùng lên giải phóng 6 xã: An Đông, An Tân, An Ninh, An Cư, An Dân và An Mỹ.
Huyện Vĩnh Thanh và các xã vùng cao hai huyện An Lão, Vân Canh được xây dựng thành căn cứ kháng chiến của quân dân Bình Định. Tại các huyện đồng bằng, phong trào cách mạng cũng bắt đầu chuyển dần lên thế tấn công.
Tháng 6.1960, tại vùng căn cứ Vĩnh Thạnh, Đảng bộ tỉnh họp Đại hội lần thứ nhất (trong kháng chiến chống Mỹ, lần thứ 5 kể từ sau Cách mạng tháng 8.1945). Sau khi thành lập Ban Quân sự tỉnh, ngày 2 tháng 9, trung đội vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh trong kháng chiến chống Mỹ ra đời, với tên gọi Trung đội 2.9. Tiếp đó, mỗi huyện đồng bằng lập một đội vũ trang công tác; mỗi huyện miền núi lập một tiểu đội vũ trang tập trung, mở đầu giai đoạn đấu tranh mới: chính trị, vũ trang song song. Cùng thời gian, nhân dân Vĩnh Thạnh mở Đại hội đại biểu nhân dân toàn huyện tại Dak Klak (Dak Klok) bầu Ủy ban Nhân dân Tự quản huyện. Đây là huyện đầu tiên của tỉnh Bình Định thiết lập chính quyền cách mạng trong kháng chiến chống Mỹ.
Vừa mới ra đời, Trung đội 2.9 đã tổ chức các trận đánh đầu tiên, giành thắng lợi. Đêm 23.9.1960, một bộ phận tổ chức đánh địch ở Hoài Ân, diệt 3 tên, làm bị thương 1 và bắt sống 8 tên khác; một bộ phận khác tập kích vào trụ sở xã Hoài Tân (Hoài Nhơn), bắt gọn một đơn vị dân vệ, thu 24 súng. Cũng trong đêm 23.9, đội đặc công của ta tấn công tiêu diệt một trung đội dân vệ ở Kim Sơn (Ân Nghĩa, Hoài Ân). Ngày 18.10.1960, tiểu đội vũ trang Vân Canh phục kích tại dốc Cây Dừng, diệt 3 tên địch, bắn bị thương 4 tên khác, thu 4 súng. Ngày 3.12.1960, đội vũ trang công tác Bình Khê tấn công trụ sở xã Bình Tân. Lực lượng vũ trang An Lão tấn công tiêu diệt 1 tiểu đội địch ở Đất Dài, hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá khu “ định cư”, trở về làng cũ.
Đến cuối năm 1960, vùng căn cứ Vĩnh Thạnh, An Lão và Vân Canh được xây dựng ngày càng vững chắc, làm chỗ dựa và bàn đạp để quân dân Bình Định đẩy mạnh tấn công vũ trang, chính trị giải phóng vùng đồng bằng nông thôn.
II)- Toàn dân đồng khởi nổi dậy diệt ác, phá kèm, đốt phá ấp chiến lược, giải phóng đại bộ phận vùng nông thôn. (1961-1965).
Quốc sách “tố Cộng, diệt Cộng” bị thất bại, Mỹ-Diệm chuyển sang thực hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt. Đặc điểm, nội dung cơ bản của chiến lược nầy là dùng quân đội tay sai làm công cụ tiến hành chiến tranh, càn quét, đánh phá, dồn dân vào ấp chiến lược trên quy mô lớn theo chiến thuật “tát nước, bắt cá”, tách “Việt Cộng” ra khỏi dân, tiêu diệt bộ đội và du kích cách mạng. Mỹ tăng cường viện trợ cố vấn và các phương tiện chiến tranh hiện đại, hỗ trợ quân ngụy mở các cuộc càn quét, gom dân, ném bom, bắn pháo, rải chất độc hóa học xuống các vùng chúng cho là mất an ninh, không kiểm soát được, nhằm tiêu diệt sự sống, buộc dân phải vào ấp chiến lược.
Đầu năm 1961, địch bắt đầu chiến dịch “tấn công Việt Cộng”, mở hơn 60 cuộc hành quân càn quét lớn nhỏ, trọng điểm là tập trung đánh phá vùng căn cứ miền núi, vùng hành lang, bàn đạp, giáp ranh giữa ta và địch. Ở đồng bằng, địch ra sức đôn quân, bắt lính, xây dựng, phát triển hệ thống điệp ngầm, củng cố bộ máy ngụy quân, ngụy quyền, nhất là ở cơ sở, để tăng cường đàn áp. Khắp nơi trong tỉnh diễn ra các cuộc càn quét, giết chóc, đốt phá nhà cửa, cướp bóc tài sản. Tại xã Nhơn Lộc (An Nhơn), địch bắt đánh đập tra tấn một lúc 21 người dân vô tội; tại xã Ân Nghĩa (Hoài Ân), địch bắt người mổ bụng, moi gan nhấm rượu; tại huyện Phù Cát, địch bắt người chặt đứt chân tay...
Nhằm đập tan âm mưu, thủ đoạn mới của Mỹ-ngụy, Lãnh đạo tỉnh chủ trương đẩy mạnh tấn công chính trị, vũ trang “Giải phóng toàn bộ miền núi, tiến mạnh xuống đồng bằng, ra sức xây dựng cơ sở, đẩy mạnh phong trào đô thị...”. Tháng 2.1961, tại căn cứ Vĩnh Thạnh, Ủy ban lâm thời Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh được thành lập. Nhân dịp nầy, báo Giải phóng lấy danh nghĩa cơ quan của Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh ra số đầu tiên. Chào mừng sự kiện quan trọng nầy, khắp nơi trong tỉnh đều tổ chức các cuộc vũ trang tuyên truyền Tuyên ngôn, Chương trình hành động của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam; tổ chức nhiều cuộc vũ trang diệt ác; đánh bại các cuộc càn quét của địch; lập nhiều chiến công vang dội..
Đến cuối năm 1961, thực lực chính trị, vũ trang của ta đều lớn mạnh. Ở đồng bằng, đa số các thôn đều có cơ sở cách mạng; trên một nửa số xã có đội vũ trang công tác xã. Toàn tỉnh có 2 đại đội bộ đội địa phương (Tây Sơn và Trần Hưng Đạo), một đại đội đặc công và 3 tiểu đội chuyên môn; mỗi huyện có từ 1 đến 2 trung đội bộ đội địa phương. Các đoàn thể Giải phóng như các hội Thanh niên Giải phóng, Phụ nữ Giải phóng, Nông dân Giải phóng, Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng lần lượt ra đời, làm nòng cốt cho phong trào cách mạng địa phương. Tháng 5.1961, 330 thanh niên xung phong tòng quân, tham gia các lực lượng vũ trang tỉnh và huyện.
Nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, năm 1961, quân dân các địa phương trong tỉnh đã bẻ gãy trên 30 cuộc hành quân càn quét của địch đánh phá các vùng căn cứ và vùng giáp ranh các huyện An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân Canh; loại hơn 300 tên địch. Nổi lên là trận phá khu dồn Đất Dài (An Lão), tháng 2.1961; trận Kon Hai-Nước Trinh (Vĩnh Thạnh), tháng 3.1961, tiêu diệt 80 tên địch. Ngày 14.5.1961, bộ đội địa phương Hoài Ân chặn đánh quân ngụy đi càn, diệt 1 trung đội dân vệ, làm chủ thôn Kim Sơn thuộc xã Ân Nghĩa và diệt 1 trung đội khác tại xã Ân Hảo. Đêm 16.7.1961, 2 trung đội của đại đội Tây Sơn phối hợp với bộ đội địa phương huyện Hoài Nhơn tập kích đồn dân vệ xã Hoài Sơn, diệt gọn 1 trung đội dân vệ và bọn chỉ huy tổng đoàn gian ác. Sáng hôm sau, địch điều một trung đội đến cứu viện. Nắm được ý đồ địch, ta bố trí lực lượng chặn đánh, diệt 53 tên, làm bị thương 18 tên và bắt sống 13 tên khác, thu 45 súng. Đây là trận thắng có tiếng vang lớn, khiến ngụy quyền trong vùng vô cùng hoảng sợ. Tại huyện An Nhơn, đêm 27.9.1961, quân ta tấn công trụ sở xã Nhơn Lộc, tiêu diệt 1 trung đội dân vệ, 2 trung đội bảo an, bắt 11 tên, thu 40 súng các loại. Đặc biệt, ngày 6/10/1961, lần đầu tiên lực lượng vũ trang tỉnh tổ chức phục kích tại đoạn đường sắt Đá Huê (xã Canh Hòa, Vân Canh) lật đổ một đoàn xe quân sự chuyên chở quân ngụy và vũ khí. Sau 3 giờ chiến đấu, ta tiêu diệt 117 tên địch, bắt 10 tên khác, phá hủy một đầu máy, 3 toa tàu và thu nhiều quân trang, quân dụng. Trận đánh đã gây chấn động lớn trong hàng ngũ địch và tạo niềm tin, sự phấn khích trong quần chúng nhân dân. Du kích các xã Hoài Thanh (Hoài Nhơn), Cát Hanh (Phù Cát). thôn Lộ Diêu, xã Hoài Mỹ (Hoài Nhơn) dũng cảm và mưu trí đột nhập vào sào huyệt địch diệt nhiều tên ác ôn khét tiếng, mở đầu phong trào diệt ác, phá kèm toàn tỉnh. Các đội vũ trang công tác huyện tổ chức 32 cuộc vũ trang tuyên truyền, phổ biến chương trình, chính sách của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kèm, xây dựng cơ sở xã, thôn ở 7 huyện đồng bằng.
Song hành cùng mũi tấn công vũ trang, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng diễn ra rầm rộ. Gần 300 đồng bào xã Hoài Thanh (Hoài Nhơn) nằm cản xe địch chở dân đi dinh điền. Nhân dân Đập Đá (An Nhơn) đấu tranh chống địch lấy máu học sinh phục vụ quân ngụy. Nhân dân các xã Phước Lộc, Phước Nghĩa (Tuy Phước) chống bọn nhà thầu của Mỹ phá lúa, hoa màu để mở tuyến giao thông từ Cầu Gành đến vực Ông Đô. Khắp nơi trong tỉnh, nhất là ở đô thị dấy lên phong trào tẩy chay cuộc bầu cử Tổng Thống nhiệm kỳ II. Nhân 7 năm ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, các đội vũ trang công tác trong toàn tỉnh mở trên 60 cuộc vũ trang tuyên truyền ở 32 xã đồng bằng, phát động quần chúng phá thế kìm kẹp, diệt 32 tên tề điệp có nhiều nợ máu với dân.
Từ tháng 10.1961 đến tháng 1.1962, phối hợp với chiến trường khu V, quân dân Bình Định mở đợt “Đồng khởi” đầu tiên ở đồng bằng, lấy các xã Hoài Sơn (Hoài Nhơn), Ân Hòa, Ân Hảo (Hoài Ân) làm trọng điểm. Mục tiêu Tỉnh đề ra cho đợt đồng khởi là “Tấn công bộ máy kìm kẹp và lực lượng vũ trang của địch, phát động phong trào quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ xã thôn, mở rộng vùng giải phóng đồng bằng...”
Thực hiện chủ trương trên, ta mở hàng trăm cuộc vũ trang tuyên truyền ở 50 xã của 7 huyện đồng bằng và 2 huyện miền núi An Lão và Vân Canh. Về vũ trang, ta đồng loạt tấn công địch ở các xã Hoài Sơn, Hoài Hảo, Hoài Châu, Hoài Thanh, Tam Quan Nam, Hoài Hương và Hoài Đức (Hoài Nhơn); các đội vũ trang công tác Hoài Ân đột nhập vào chợ Hà Đông (xã Ân Hữu), Kim Sơn (Ân Nghĩa); đội vũ trang công tác Bình Khê tập kích địch ở đồn Đất Đỏ (Vĩnh Hòa). Tại huyện Phù Cát, ta phát động quần chúng ở 10 xã, rút thanh niên thành lập 7 đội vũ trang công tác.
Phối hợp với tấn công vũ trang, quần chúng nhân dân rầm rộ nổi dậy diệt ác, phá tề, làm rã bộ máy ngụy quyền xã thôn ở 7 xã thuộc các huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ; giải phóng 9 thôn, lập chính quyền tự quản đầu tiên ở các xã Ân Hòa, Ân Hảo (Hoài Ân); giành quyền làm chủ 3.000 dân 7 xã vùng Hà Thanh (Vân Canh).
Tính chung, đến đầu năm 1962, vùng đồng bằng có 20 thôn với 3.000 dân đã được giải phóng; dân số cả vùng căn cứ và vùng giải phóng tăng lên hơn 19.000 người, chiếm hơn 2,4% dân số toàn tỉnh (năm 1960 có hơn 802.000 người). Thực lực chính trị, vũ trang cách mạng tăng đáng kể. Toàn tỉnh có trên 2.161 cơ sở cách mạng; 45 đội công tác xã, 144 du kích xã; bộ đội tỉnh có 2 đại đội Tây Sơn và Trần Hưng Đạo, 1 đại đội đặc công và 3 tiểu đội trinh sát, thông tin, công binh; bộ đội huyện có 9 trung đội.
Tỉnh Bình Định được Mỹ-Diệm chọn là một trong 7 tỉnh trọng điểm quốc gia thực hiện “Quốc sách ấp chiến lược”. Địch tăng quân số lên 13 đại đội bảo an, 96 tổng đoàn dân vệ, 2 trung đoàn cộng hòa; cho tu sửa các tuyến giao thông, nhất là tuyến huyết mạch quốc lộ 19, mở rộng cảng Quy Nhơn, tạo thuận lợi cho việc hành quân càn quét, đẩy mạnh thực hiện dồn dân lập ấp chiến lược, với mục tiêu trong năm 1962 là hoàn thành xây dựng 200 ấp trong toàn tỉnh, nhằm biến xóm làng thành trại giam, kiểm soát, kìm kẹp chặt nhân dân, tách cách mạng ra khỏi dân.
Năm 1963, Mỹ-Diệm tập trung lực lượng đánh phá ác liệt các huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn và bắc Phù Mỹ. Đến cuối năm, địch lập được 460 ấp chiến lược ở đồng bằng, trong đó có 180 “ấp chiến đấu”, dồn gần 513.520 dân (dân số toàn tỉnh là trên 800.000 người), trong đó có 200.000 dân phải bỏ nhà cửa, ruộng vườn. Đi đôi với củng cố vững chắc những ấp áng ngữ vùng giáp ranh đủ sức chống trả những cuộc tấn công của quân Giải phóng, địch còn lập một số cụm “ấp chiến lược liên hoàn” tại các vùng xung yếu như An Đỗ (Hoài Sơn, Hoài Nhơn), Kim Sơn (Ân Nghĩa, Hoài Ân), Thạch Bàn, Long Định (Cát Sơn, Cát Hiệp, Phù Cát).
Thủ đoạn xây dựng ấp chiến lược của địch đã gây cho cách mạng rất nhiều khó khăn trong việc tuyên truyền vận động nhân dân, xây dựng cơ sở hoạt động cách mạng, tiếp tế lương thực, thực phẩm, thuốc men cho vùng căn cứ và nuôi giấu cán bộ, đảng viên trong dân. Nhiều địa phương, cán bộ, lực lượng vũ trang không thể đứng chân trong dân, một bộ phận phải rút lên căn cứ rừng núi, “lót ổ kén” như thời khó khăn nhất trước đây.
Để tháo gỡ những bất lợi do địch gây ra, đầu tháng 3.1963, Tỉnh chủ trương “Đẩy mạnh phong trào đấu tranh 3 mũi giáp công tại chỗ, tập trung vào nhiệm vụ chống địch càn quét, phát động quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược. Đồng thời tích cực xây dựng và phát triển cơ sở đồng bằng, các thị trấn và thị xã Quy Nhơn, tiến lên nắm phong trào thanh niên, học sinh, Phật giáo chống Mỹ-Diệm...”. Tỉnh ủy mở đợt chỉnh huấn trong Đảng bộ (đợt chỉnh huân đầu tiên trong kháng chiến chống Mỹ), sau đó tổ chức các cuộc phát động tư tưởng trong bộ đội và nhân dân; vận động cán bộ, bộ đội tổ chức đào công sự bí mật nhằm bám dân và gây dựng cơ sở cách mạng trong các ấp chiến lược để làm nòng cốt chống phá ấp chiến lược.
Thực hiện quyết tâm của Tỉnh, quân dân các địa phương chặn đánh, đẩy lùi trận càn lớn của 1 tiểu đoàn quân chủ lực ngụy có máy bay và pháo yểm trợ, diệt 44 tên; tổ chức phục kích lật đổ 1 đoàn tàu quân sự 14 toa tại đèo Phủ Cũ và 1 đoàn tàu khác tại đèo Bình Đê. Ngày 9.2.1963, D10 đặc công tỉnh phối hợp với bộ đội huyện Phù Mỹ tấn công địch tại trụ sở xã Mỹ Thọ. Chiến sĩ Nguyễn Kim, dù đạp phải bàn chông, vẫn dũng cảm ôm bộc phá lao vào lô cốt địch, tạo điều kiện để đồng đội xốc tới diệt 11 tên địch (có 4 ác ôn), bắt 5 tên khác, bắn rơi 1 máy bay trinh sát. (Năm 1965, Nguyễn Kim được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân). Ngày 26.5, ta luồn sâu vào hậu phương địch, tập kích Sư đoàn bộ Sư đoàn 9 quân chủ lực ngụy ở Phú Tài, sát nách thị xã Quy Nhơn, diệt 60 tên. Tháng 5/1963, bộ đội An Nhơn tấn công trụ sở ngụy quyền xã Nhơn Hạnh, diệt và làm tan rã 2 trung đội dân vệ, thanh niên chiến đấu. Tháng 6.1963, hưởng ứng phong trào “Thi đua Âp Bắc, giết giặc, lập công”, quân dân Bình Định dồn dập tấn công địch, loại khỏi vòng chiến đấu 1.500 tên, bằng cả năm 1962.
Ngày19.8.1963, Tiểu đoàn 50, tiểu đoàn bộ binh đầu tiên của quân dân Bình Định trong kháng chiến chống Mỹ được thành lập tại xã Ân Hữu, huyện Hoài Ân, làm chỗ dựa cho phong trào tấn công và nổi dậy chống phá ấp chiến lược.
Sau khi tổ chức thành công thí điểm phá ấp chiến lược bằng lực lượng 3 mũi giáp công tại chỗ ở thôn Đại Khoan (xã Cát Hiệp, Phù Cát) và thôn An Giang (xã Mỹ Đức, Phù Mỹ), Tỉnh phát động phong trào phá ấp chiến lược ở hầu hết các huyện đồng bằng. Được sự hỗ trợ của tấn công vũ trang, 18.820 lượt quần chúng nhân dân trong tỉnh nổi dậy phá 136 ấp chiến lược, có 38 ấp bị phá dứt điểm. Phong trào đấu tranh chống phá ấp chiến lược diễn ra giằng co, quyết liệt: ta phá, địch xây lại và dồn dân vào; ta lại phá, địch lại xây và dồn dân. Có những ấp, ta phá đi phá lại hàng chục lần. Nửa đầu năm 1963, huyện Phù Mỹ có phong trào phá ấp chiến lược mạnh mẽ nhất tỉnh; gần 5.500 lượt đồng bào các xã đông huyện nổi dậy phá 16 ấp, tiêu biểu nhất là cuộc đấu tranh phá ấp chiến lược thôn An Giang (xã Mỹ Đức). Đây là ấp thí điểm do Tỉnh Trưởng Bình Định và Quận Trưởng Phù Mỹ trực tiếp chỉ huy xây dựng. Cuộc đấu tranh khởi đầu từ ngày 15.3.1963 diễn ra giằng co, quyết liệt suốt 50 ngày đêm. Nhân dân đối đầu tấn công chính trị, binh vận với 1 tiểu đoàn cộng hòa và 1 đại đội bảo an. Đêm 4/5, lợi dụng quân cộng hòa và bảo an vừa rút, du kích đột nhập vào ấp, diệt 3 tên ác ôn và làm bị thương 2 tên khác. Đến ngày 5.5, có du kích hỗ trợ, nhân dân nổi dậy phá banh toàn bộ ấp chiến lược, bắt 7 tên ác ôn. Thôn An Giang được giải phóng. Đây là điển hình phá ấp chiến lược bằng “ 3 mũi giáp công ” của lực lượng tại chỗ.
Phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh và đều khắp các huyện trung du và miền núi. Ngày 27.6.1963, bộ đội huyện Hoài Ân phối hợp với du kích xã tấn công địch ở Ân Tường, tiêu diệt và bắt 182 tên địch. Tại huyện Vân Canh, bộ đội huyện và du kích xã tổ chức bố phòng dày đặc và chiến đấu ngoan cường, bẻ gãy các cuộc càn quét của địch vào vùng căn cứ; tiêu biểu là các trận chống càn ở hóc Bà Rong (ngày1.7.1963), ở Canh Thành (ngày 18.7), ở Đá Huê (ngày 21.7). Bằng 3 mũi giáp công, quân dân huyện Vân Canh liên tiếp tổ chức nhiều trận đánh địch ác liệt, đồng thời tích cực tuyên truyền binh địch vận, đến tháng 6/1963 đã làm tan rã 1 trung đội biệt kích và thanh niên chiến đấu, làm đào ngũ 10 lính bảo an và biệt kích. Du kích xã Bình Quang (Bình Khê) cùng bộ đội huyện Vĩnh Thạnh tấn công tiêu diệt địch ở Hòn Gấm, hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá tan ấp chiến lược và giành quyền làm chủ thôn Vĩnh Phúc.
Tháng 9.1963, trong chiến dịch Thu Đông, quân dân Bình Định dồn dập tấn công địch. Nổi bật nhất là trận đánh điểm, diệt viện ở xã Cát Sơn (Phù Cát). Ta chặn đánh 2 tiểu đoàn địch có xe tăng và máy bay lên thẳng yểm trợ, diệt 150 tên, phá hỏng 3 xe M113, bắn rơi 1 trực thăng. Đây là trận đánh có quy mô lớn nhất từ trước đến nay, lần đầu tiên đánh bại chiến thuật “thiết xa vận” của Mỹ-ngụy.
Thấy không thể sử dụng bọn tay sai Diệm Nhu, ngày 1.11.1963, Mỹ bật đèn xanh cho nhóm tướng lĩnh do Dương Văn Minh cầm đầu, làm đảo chính lật đổ và giết chết anh em Ngô Đình Diệm. Nhân nội bộ địch rối ren, quân Giải phóng Bình Định bung ra tấn công địch dồn dập, diệt hơn 90 tên; nhân dân ào ạt vùng lên diệt ác, phá kèm, đốt phá ấp chiến lược ở 101 thôn với hơn 121.100 dân, đồng loạt giải phóng nhiều mãng vùng nông thôn rộng lớn từ tây An Lão, thung lũng Kim Sơn (Hoài Ân), nam Hoài Nhơn, đông Phù Mỹ, tây Phù Cát nối liền vùng đông bắc Bình Khê. Ở khu Đông, nhân dân các xã Cát Hanh, Cát Chánh (Phù Cát), Phước Hòa, Phước Thuận, Phước Sơn (Tuy Phước) nổi dậy diệt ác ôn, rầm rộ đốt phá ấp chiến lược, thành lập chính quyền cách mạng ở cơ sở. Đến cuối 1963, ta phá được 228 ấp chiến lược, giải phóng 283 thôn; có 4 xã được giải phóng hoàn toàn là Hoài Sơn (Hoài Nhơn), Ân Nghĩa, Ân Hữu (Hoài Ân) và Cát Sơn (Phù Cát). Vùng giải phóng được khai thông giữa miền núi và đồng bằng.
Nhận thấy ngụy quyền Dương Văn Minh bất lực, ngày 30.1.1964, Mỹ giật dây Nguyễn Khánh đảo chính hạ bệ Dương Văn Minh. Mỹ tăng cường sự chỉ huy trực tiếp của bộ máy thực dân mới, tăng viện trợ vũ khí, phương tiện chiến tranh và tài chính cho bọn tay sai Nguyễn Khánh ra sức bắt lính, đôn quân, tiếp tục đánh phá quyết liệt phong trào cách mạng Miền Nam, đẩy mạnh gom dân, lập ấp, giành lại các vùng đã mất về tay cách mạng.
Tỉnh Bình Định là trọng điểm “bình định” của địch ở khu V. Với quân số tăng lên 18.000 tên, địch dồn sức, liên tiếp mở nhiều cuộc phản kích, đánh phá ác liệt các vùng giải phóng từ bắc Hoài Nhơn đến đông bắc Bình Khê, chiếm lại 45 thôn, lập lại 35 ấp chiến lược, dồn hơn 30.000 dân vào hàng chục “ấp tân sinh”. Được mũi tấn công vũ trang hỗ trợ, nhân dân nổi dậy phá 70 ấp chiến lược, có 32 ấp bị phá banh, trong đó có 5 ấp vùng sâu, giành lại 25 thôn vừa bị địch lấn chiếm. Địch ra sức tăng cường hệ thống công sự phòng thủ, xây dựng, củng cố trên 300 chốt điểm vùng giáp ranh tây Phù Cát, tây bắc Hoài Nhơn, có 25 cứ điểm cấp đại đội, nhằm ngăn chặn các cuộc tấn công của ta. Do địch phản kích quyết liệt và lập hệ thống phòng thủ vững chắc, các lực lượng vũ trang tập trung và nhiều đội vũ trang công tác xã bị bật lên núi cao, phải tốn nhiều công sức và tổn thất mới xuyên thủng được vùng giáp ranh để thọc sâu vùng địch
Nhằm chống lại âm mưu, thủ đoạn mới của Mỹ-ngụy, Tỉnh chủ trương đẩy mạnh chiến tranh du kích rộng khắp, tập trung sức chống địch phản kích, lấn chiếm vùng căn cứ và vùng giải phóng. Quý I năm 1964, được sự hỗ trợ của tấn công vũ trang, nhân dân nổi dậy phá 70 ấp chiến lược, giành lại hàng chục thôn vừa bị địch lấn chiếm.
Tháng 4.1964, Tỉnh mở chiến dịch “Đồng khởi khu Đông“, chọn các xã đông nam Phù Cát, đông An Nhơn, bắc Tuy Phước làm trọng điểm. Mục tiêu phấn đấu là giành cho được 100.000 dân ở vùng sâu, tạo hành lang và bàn đạp tấn công vào Quy Nhơn.
Thực hiện chủ trương trên, đêm 5.7.1964, Đại đội 3 Tiểu đoàn 50 của tỉnh bất ngờ tập kích diệt gọn 1 trung đội dân vệ ở chốt Càng Rang (Cát Thắng, Phù Cát), chọc thủng tuyến phòng thủ quan trọng của địch ở khu Đông, mở màn chiến dịch. Các đội vũ trang công tác ở Phù Cát, Tuy Phước đồng loạt phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kèm, phá ấp chiến lược, giành quyền làm chủ ở cơ sở. Chỉ trong vòng 1 tháng (5.7-5.8.1964), tại các vùng trọng điểm Phù Cát, Tuy Phước, nhân dân đồng loạt nổi dậy giải phóng hoàn toàn 24 thôn của các xã Cát Hanh, Cát Thắng, Cát Nhơn, Cát Khánh (Phù Cát) và 22 thôn của 3 xã Phước Thắng, Phước Hòa, Phước Lý (Tuy Phước); quân dân trong tỉnh đã tiêu diệt 500 tên địch, làm rã 84 trung đội dân vệ và thanh niên chiến đấu.
Toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền các xã đông nam Phù Cát, đông bắc Tuy Phước và một số xã ở An Nhơn đều bị quần chúng nổi dậy quét sạch, tạo thành một mãng vùng giải phóng liên hoàn ở vùng sâu, dọc theo bờ biển dài hơn 20 km gồm 34 thôn với hơn 90.000 dân, uy hiếp trực tiếp cơ quan đầu não của địch ở Quy Nhơn.
Cùng với khu Đông, Phù Mỹ giải phóng và làm chủ 28 thôn của 7 xã phía đông huyện. Đến thời điểm nầy, toàn tỉnh giải phóng 90 thôn (mới mở 45, giành lại 45) của 25 xã thuộc 6 huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát, Tuy Phước và Bình Khê với 110.000 dân; diệt 500 tên địch; phá rã 84 trung đội dân vệ và thanh niên chiến đấu.
Hòa cùng thắng lợi của phong trào “Đồng khởi”, phong trào đấu tranh chính trị, binh vận tấn công hệ thống ngụy quyền xã thôn dâng lên rất sôi động. Toàn tỉnh đã tổ chức gần 370 cuộc mit ting, biểu tình thu hút hơn 90.000 lượt quần chúng tham gia. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh ngày 22.7.1964 của hơn 1.000 đồng bào làm nghề biển của xã Phước Lý (Tuy Phước) kéo vào Quy Nhơn đòi Tỉnh trưởng phải bồi thường những thiệt hại do quân ngụy đi càn gây ra. Nguyễn Khánh, Thủ tướng ngụy quyền phải từ Sài Gòn bay ra Quy Nhơn hứa giải quyết các yêu sách của nhân dân. Đây là cuộc đấu tranh nhập thị đầu tiên ở khu V. Ngày 25.8.1964, hơn 1 vạn quần chúng nhân dân đông nam Phù Cát, đông bắc Tuy Phước rầm rộ kéo vào Quy Nhơn bằng 2 đường thủy bộ tham gia biểu tình cùng với hàng nghìn thanh niên, học sinh, sinh viên, tín đồ Phật giáo và nhân dân lao động thị xã, bao vây dinh Tỉnh Trưởng, quyết liệt đấu tranh dòi địch xóa bỏ “Hiến chương Vùng Tàu“. Đây là cuộc đấu tranh chính trị lớn của nhân dân Quy Nhơn, có tiếng vang khắp thành thị Miền Nam.
Trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng tỉnh nhà, nhằm tập hợp đông đảo hơn nữa các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia chống Mỹ, cứu nước, Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng chính thức của tỉnh ra đời. Tháng 8/1964, toàn bộ lực lượng cách mạng của tỉnh chuyển xuống đồng bằng, khẩn trương chuẩn bị mở phong trào “Đồng khởi đợt 2“ (tháng 9 và tháng 10.1964). Trong đợt nầy, ở Hoài Ân, ta tấn công bọn dân vệ ở 5 ấp chiến lược Phú Hữu (Ân Tường), sau đó đánh quân viện ở Trung Hội (Mỹ Trinh, Phù Mỹ), diệt và làm tan rã 9 trung đội dân vệ, thu 100 súng. Bộ đội tỉnh và du kích các xã Nhơn Hạnh (An Nhơn), Cát Thắng, Cát Khánh (Phù Cát), Phước Sơn (Tuy Phước), Bình Hòa (Bình Khê), Bình Quang (Vĩnh Thạnh) vừa chủ động tấn công lực lượng bảo an, dân vệ, vừa tổ chức chống trả, bẻ gãy các trận càn của địch. Đặc biệt, do cán bộ ta làm tốt công tác binh địch vận, nên đã có hơn 100 trung đội dân vệ, thanh niên chiến đấu, thanh niên chống du kích bị tan rã; ngày 20.10.1964, 3 trung đội dân vệ ở Tam Quan (Hoài Nhơn) nổi dậy làm binh biến, diệt chỉ huy, mang 70 súng trở về xin tham gia cách mạng, đánh Mỹ.
Phối hợp với tấn công vũ trang, bằng bạo lực quần chúng tại chỗ, nhân dân vùng nông thôn đồng bằng nổi dậy phá tan 100 ấp chiến lược, diệt, bắt cải tạo 600 tên tề điệp, giải phóng và làm chủ 110 thôn, 13 xã của 7 huyện đồng bằng với 120.000 dân. Huyện Phù Mỹ giải phóng 42 thôn của 15 xã với 80.000 dân, trong đó có 9 xã giải phóng hoàn toàn là Mỹ Đức, Mỹ Lộc, Mỹ Phong, Mỹ An, Mỹ Thắng, Mỹ Thọ, Mỹ Thành, Mỹ Chánh, Mỹ Tài, tạo thành vùng giải phóng liên hoàn ở phía đông huyện giáp với vùng giải phóng phía đông huyện Hoài Nhơn dài hơn 40 km. Huyện Tuy Phước giải phóng hoàn toàn 4 xã (Phước Thuận, Phước Hiệp, Phước Hưng, Phước Hải) và 25 thôn của 6 xã khác. Đặc biệt, đợt nầy, ta phá dứt điểm các ấp chiến lược liên hoàn mà trước đây ta phải phá đi phá lại hàng chục lần như Hy Văn (Hoài Sơn, Hoài Nhơn) Thanh Sơn và Tân An (Hoài Châu, Hoài Nhơn), Đại Khoan (Cát Hiệp, Phù Cát), Vinh Kiên (Cát Hanh, Phù Cát).
Đêm 30.10.1964, tàu số 401 của Đoàn 759 Hải quân Việt Nam chở 30 tấn hàng, chủ yếu là súng đạn, cập bãi ngang Lộ Diêu (Hoài Mỹ, Hoài Nhơn), được đồng bào địa phương chuyển đi an toàn để trang bị cho các lực lượng vũ trang Giải phóng.
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI (lần thứ 2 trong kháng chiến chống Mỹ) họp từ 20-25.12.1964, ra Nghị quyết mở đợt hoạt động Đông Xuân 1964, nhằm giành 50-60 vạn dân, bức rút, giải phóng vài huyện. Chấp hành chủ trương trên, sáng 7.12.1964, Trung đoàn 2 quân Giải phóng, Tiểu đoàn đặc công 409 quân khu V phối hợp với Đại đội 8 bộ đội tỉnh, 1 đại đội và 2 trung đội của Hoài Ân và An Lão, đồng loạt tấn công hệ thống cứ điểm địch ở Chi khu quân sự An Lão gồm 11 chốt và 18 ấp chiến lược tạo thành tuyến phòng thủ kiên cố, chiều ngang 1 km, dài 10 km dọc tỉnh lộ từ Bồng Sơn lên An Lão do 3 đại đội bảo an, 1 trung đội pháo binh cộng hòa và 18 trung đội dân vệ với hơn 900 quân đóng giữ. Trước đòn tấn công bất ngờ của quân Giải phóng, Bộ Chỉ huy tiểu khu Bình Định và Sư đoàn 22 Cộng hòa phải hoãn kế hoạch càn quét, đánh phá đường 19, vội điều ngay 2 tiểu đoàn Cộng hòa, 1 chi đội M113 có máy bay khu trục yểm trợ, bằng đường không và đường bộ kéo đến giải tỏa. Cả bọn đồn trú và bọn giải tỏa đều bị quân ta đánh tơi tả. Chỉ trong 2 ngày 7 và 8/12, ta đã loại gần 700 tên, diệt 2 đại đội bảo an, 1 trung đội pháo binh Cộng hòa, 10 xe M113; làm tan rã 13 trung đội dân vệ; bắn rơi 1 máy bay lên thẳng, thu 320 súng; giải phóng Chi khu-quận lỵ và toàn bộ thung lũng An Lão với 11.000 dân. Chiến thắng An Lão quét sạch quân thù ra khỏi huyện miền núi, đánh dấu một bước trưởng thành của các lực lượng vũ trang Giải phóng.
Phối hợp với tấn công quân sự, nhân dân An Lão, Hoài Nhơn nổi dậy diệt ác, phá kèm, phá dứt điểm 20 ấp chiến lược. Nhân cơ hội lực lượng vũ trang huyện tấn công tiêu diệt 80 tên địch ở Đức Hựu (Tam Quan Nam), hàng nghìn đồng bào Hoài Nhơn tấn công binh vận làm rã ngũ 200 thanh niên chiến đấu, đồng thời rầm rộ kéo vào thị trấn Tam Quan đấu tranh chính trị làm cho địch hoang mang, lo sợ.
Cuối năm 1964, phong trào đấu tranh chính trị phát triển mạnh mẽ, đều khắp thành thị, nông thôn với gần 100 cuộc đấu tranh có gần 50.000 lượt người tham gia. Đấu tranh tại xã nhiều nhất là huyện Hoài Nhơn (gần 50 cuộc với 26.000 lượt người); biểu tình nhập quận nhiều nhất là huyện Phù Mỹ (134 cuộc). Nhân dân Tuy Phước chẳng những tổ chức hàng chục cuộc biểu tình nhập quận mà còn tích cực tham gia 11/12 cuộc đấu tranh nhập thị của đồng bào nông thôn. Cuối tháng 9.1964, phối hợp với phong trào nhân dân thành thị toàn Miền Nam rầm rộ xuống đường chống Nguyễn Khánh độc tài, tại Bồng Sơn nổ ra 2 cuộc biểu tình ngày 12 và 15.9 của hơn 4.000 học sinh; tại Quy Nhơn nổ ra dồn dập 3 cuộc biểu tình nhâp thị bằng 2 đường thủy, bộ vào các ngày 20, 22 và 27.9, có 2 lần bao vây đài phát thanh địch (các ngày 20 và 27). Trong cuộc nhập thị chiếm đài phát thanh ngày 27.9, Nguyễn Khánh bay ra Quy Nhơn huy động xe tăng, trực thăng đàn áp đẫm máu quần chúng tay không.
Tháng 12.1964, ta dồn dập tấn công địch ở An Nhơn, Tuy Phước, Phù Cát, Hoài Ân. Nổi lên là trận tấn công chợ Phú Đa (An Nhơn) vào đêm 3.12 diệt gọn 4 trung đội bảo an, dân vệ, thu 100 súng; trận đánh tháo chạy 2 tiểu đoàn quân cộng hòa càn vào xã Cát Chánh (Phù Cát) trong 2 ngày 9 và 10.12, loại 103 tên, giải phóng hoàn toàn xã Cát Thắng; trận chặn đánh 2 tiểu đoàn Cộng hòa và 1 đại đội pháo binh địch đang trên đường rút quân, loại hơn 70 tên (ngày 19/12) tại Mỹ Thành, xã Ân Tín, Hoài Ân; trận đánh tiêu diệt và làm tan rã 8 trung đội bảo an đóng tại xã Cát Khánh (Phù Cát), hỗ trợ nhân dân nổi dậy giải phóng cửa biển Đề Gi.
Cuối năm 1964, nhân dân vùng nông thôn nổi dậy phá hơn 50 ấp chiến lược, có 30 ấp bị phá banh, phá thế kẹp ở hơn 100 thôn của 30 xã thuộc 7 huyện đồng bằng, trong đó có 7 xã và 61 thôn được giải phóng hoàn toàn với hơn 60.000 dân. Lập công lớn trong đợt nầy là 2 huyện Hoài Nhơn và An Nhơn. Hoài Nhơn có 21 thôn giải phóng thuộc 10 xã, trong đó có 2 xã hoàn toàn giải phóng là Hoài Hảo và Hoài Hương (6 thôn, có cửa An Dũ). An Nhơn có 23 thôn giải phóng thuộc 5 xã, trong đó có 2 xã hoàn toàn giải phóng là Nhơn Phong và Nhơn Hạnh (11 thôn).
Đến cuối năm 1964, vùng căn cứ miền núi được củng cố vững chắc; vùng giải phóng đồng bằng được mở rộng liên hoàn, tạo thế bao vây, uy hiếp đô thị. Phong trào chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích, xây dựng làng chiến đấu phát triển mạnh ở nhiều nơi như An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân Canh, Hoài Nhơn, đông Phù Mỹ, đông Phù Cát...trở thành những trận địa phòng thủ đủ sức đẩy lùi nhiều cuộc càn quét, phản kích của địch.
Trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn của ngụy quyền tay sai ở miền Nam Việt Nam, đầu năm 1965, đế quốc Mỹ cho nhóm tướng trẻ Thiệu-Kỳ “đầu bò” làm đảo chính lật Khánh-Hương, đồng thời tăng thêm lực lượng quân sự Mỹ ở Miền Nam; mặt khác tiến hành leo thang đánh phá Miền Bắc nhằm ngăn chặn sự chi viện của hậu phương Miền Bắc đối với Miền Nam.
Tại tỉnh Bình Định, địch tăng số cố vấn và nhân viên kỹ thuật Mỹ từ 500 lên 1.000 tên. Những tháng đầu năm 1965, địch mở 830 cuộc càn lớn nhỏ, trong đó có 135 trận có quy mô từ 1 tiểu đoàn trở lên, có máy bay, xe tăng yểm trợ gây cho nhân dân nhiều thương vong và thiệt hại về tài sản. Điển hình như trận địch càn vào các xã Cát Thắng, Cát Chánh (Phù Cát) tháng 4.1964, bắn chết 122 đồng bào ta, đốt cháy 156 nóc nhà. Mặt khác, địch thẳng tay đàn áp dã man các cuộc biểu tình đấu tranh chính trị ở Quy Nhơn (tháng 2/1964), Bồng Sơn-Hoài Nhơn (tháng 5.1965); tăng cường ném bom, rải chất độc hóa học nhằm hủy diệt sự sống ở các vùng căn cứ miền núi.
Thực hiện chủ trương của Lãnh đạo khu V mở chiến dịch Xuân 1965, tiêu diệt một bộ phận quân chủ lực và địa phương quân của địch, Tỉnh chọn khu vực đông An Nhơn, nam Phù Cát, bắc Tuy Phước làm địa bàn trọng điểm; hợp đồng tác chiến với bộ đội chủ lực khu tại bắc Phù Mỹ.
Mở màn chiến dịch, đêm 6 rạng ngày 7.2.1965, Đại đội 8 bộ đội tỉnh cùng du kích địa phương phối hợp với Tiểu đoàn đặc công 409 của khu tập kích cứ điểm Gia Hựu, Đồi 10 (Hoài Nhơn), diệt và bắt 200 tên địch. Cùng thời gian, quân ta tấn công cứ điểm Dương Liễu (xã Mỹ Lợi, Phù Mỹ), diệt gọn 1 đại đội bảo an, 4 trung đội dân vệ và bọn ác ôn của 8 xã bắc Phù Mỹ. Ngày 8.2, địch cho 2 tiểu đoàn Cộng hòa và 1 chi đoàn M113 từ thị trấn Phù Mỹ ra giải tỏa. Chúng lọt vào trận địa phục kích của quân ta tại Đèo Nhông. Toàn bộ 2 tiểu đoàn cộng hòa và chi đoàn xe bọc thép địch bị tiêu diệt. Chiến thắng Đèo Nhông đánh dấu bước trưởng thành về tiêu diệt chiến của quân chủ lực khu V.
Tại mặt trận Phù Cát, ta bất ngờ tập kích vào 2 cứ điểm địch ở ga Khánh Phước và trụ sở xã Cát Hanh, loại khỏi vòng chiến đấu 1 đại đội bảo an; tấn công ấp Hòa Hội và hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá tan 8 ấp khác, giải phóng hoàn toàn xã Cát Hanh, khai thông hành lang kháng chiến từ tây xuống đông quốc lộ I. Tại Hoài Nhơn, 20.000 đồng bào các xã phía bắc huyện phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương dùng 3 mũi giáp công giải phóng hoàn toàn các xã Hoài Châu, Hoài Thanh, Tam Quan Nam, Hoài Tân, Hoài Xuân. Đến thời điểm nầy, huyện Hoài Nhơn có 10 xã hoàn toàn giải phóng. Ở Bình Khê, với lực lượng tại chỗ là chủ yếu, quần chúng ào ạt nổi dậy diệt ác, phá kèm, kết hợp tấn công binh vận. Tiếng bom phá cầu Mỹ Thạnh cùng tiếng chiêng trống vang rền của đồng bào Bình Thuận, Bình An uy hiếp địch suốt 3 ngày đêm liền (5-7.2.1965). Khí thế cách mạng lên cao chưa từng có. Thêm 6 xã Bình Thuận, Bình An, Bình Tân, Bình Hòa, Bình Quang, Bình Giang được hoàn toàn giải phóng. Toàn huyện có 55.500/74.700 dân đã được giải phóng. Tại Vĩnh Thạnh, quần chúng nổi dậy giải phóng các thôn còn lại và giải phóng hoàn toàn quận lỵ (ngày 12.3.1965). Tại Vân Canh, quần chúng tấn công mạnh vào các ấp Canh Hòa, Canh Giao, Canh Phước, Canh Thành, loại khỏi vòng chiến đấu 200 tên địch, thu 121 súng; đưa dân số vùng giải phóng lên hơn 4.390 người; vùng giải phóng chiếm 80% dân số, 90% đất đai.
Tại Quy Nhơn, sào huyệt của Mỹ ngụy, đêm 10.2.1965, 1 tổ 3 chiến sĩ đặc công D10, phối hợp với cơ sở nội thị, cải trang hợp pháp, dùng xe xích lô chở thuốc nổ, tiếp cận đánh sập khách sạn Việt Cường nằm trên đường Gia Long (nay là Trần Hưng Đạo), diệt và làm bị thương 55 sĩ quan Mỹ. Tướng Mỹ, Oet-mô-len thú nhận: ”Một vụ nổ đã phá sập một khách sạn dùng làm cư xá cho quân Mỹ. Toàn bộ khách sạn bị đổ sập, giết chết 23 người, làm bị thương 21 người và những người khác bị kẹt trong đống đổ nát, là số thương vong nhiều nhất của Mỹ xảy ra trong riêng một sự kiện...”. Ngay sáng hôm sau, ngày 11.2.1965, hàng nghìn đồng bào các xã đông nam Phù Cát, đông Tuy Phước theo 2 đường thủy bộ kéo vào nội thị đấu tranh. Để trả đũa cho thiệt hại nặng nề ở khách sạn Việt Cường, Mỹ-ngụy dùng máy bay lên thẳng và hải thuyền đàn áp đẫm máu những người tham gia cuộc đấu tranh. Gần 300 người dân vô tội, đa số là nữ thanh niên tử nạn. Đêm 11.2.1965, tại vùng giải phóng Cát Thắng (Phù Cát), Tỉnh tổ chức trọng thể lễ truy điệu những chiến sĩ đấu tranh chính trị đã hy sinh anh dũng. Để trả thù cho những đồng bào, đồng chí đả mất, ngay đêm đó, tiểu đoàn 50 và đại đội đặc công D10 của tỉnh tập kích chi khu quân sự Gò Bồi (Tuy Phước), diệt 1 đại đội bảo an và một số dân vệ, biệt kích.
Mặc dù địch điên cuồng mở hàng trăm cuộc càn quét đánh phá ác liệt các vùng ta đã giành quyền làm chủ, nhưng với tinh thần cách mạng tấn công, thừa thắng xông lên, đầu tháng 3/1965, toàn tỉnh mở Chiến dịch Hè-1965. Cùng với tấn công vũ trang, quần chúng nhân dân đồng loạt nổi dậy phá dứt điểm 110 ấp chiến lược, giải phóng và làm chủ 46 thôn của 43 xã 7 huyện đồng bằng (có 21 thôn sau đó bị lấn), giải phóng hoàn toàn 28 xã với gần 140.000 dân. Trước đòn tấn công và nổi dậy mạnh mẽ của ta, địch phải rút khỏi thị trấn Tam Quan (tháng 2.1965), chi khu-quận lỵ Vĩnh Thạnh (12.3.1965) và chi khu-quận lỵ Vân Canh (tháng 3.1965).
Đến tháng 6.1965, quân dân trong tỉnh đã giải phóng và làm chủ 505/640 thôn (chiếm hơn 70% số thôn), 56/86 xã (gần 64% số xã) của 7 huyện đồng bằng với 564.500/735.500 dân (76,7% dân số toàn tỉnh); giải phóng hoàn toàn 3 huyện và 3 quận lỵ các huyện miền núi Vĩnh Thạnh, Vân Canh, An Lão. Ở đồng bằng, ta giải phóng hoàn toàn 6 thị trấn và thị tứ: Tam Quan (Hoài Nhơn), Xung Phong (Ân Hòa, Hoài Ân), An Lương (Mỹ Chánh, Phù Mỹ), Đề Gi (Cát Khánh, Phù Cát), Cảnh Hàn (Nhơn Phong, An Nhơn), An Thái (Nhơn Phúc, An Nhơn). Hoài Ân có 56 thôn, 5 xã với 44.000 dân; Hoài Nhơn có 71 thôn, 10 xã với 127.000 dân; Phù Mỹ có 112 thôn, 11 xã với 102.460 dân; Phù Cát có 88 thôn, 9 xã với 88.100 dân; Tuy Phước có 78 thôn, 9 xã với 89.600 dân; An Nhơn có 59 thôn, 6 xã với 59.800 dân được giải phóng hoàn toàn.
Địch chỉ còn đóng giữ thị xã Quy Nhơn, 7 quận lỵ đồng bằng, 134 thôn phụ cận dọc đường số I và đường 19 với 232.450 dân (trong đó có 35 thôn tranh chấp). Đường sắt bị ta cắt từ năm 1862; 2 quốc lộ I và19 bị chặt từng đoạn, đặc biệt đoạn từ Tam Quan ra đèo Bình Đê, giáp Quảng Ngẫi do ta làm chủ liên tục từ tháng 2/1965 đến đầu năm 1966.
Vùng căn cứ và vùng giải phóng được xây dựng vững mạnh toàn diện. Nhân dân mở hội nghị đại biểu bầu Ủy ban Nhân dân Tự quản xã, thôn. Các đoàn thể giải phóng được thành lập ở hầu hết các cơ sở. Chính sách chia ruộng đất công cho nông dân được tiến hành. Phong trào vòng, đổi công, hợp tác lao động được đồng bào các huyện miền núi hăng hái tham gia. Nổi lên là sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, văn nghệ quần chúng phát triển mạnh. Tại 540 thôn giải phóng, làm chủ ở đồng bằng, có 1.552 lớp cấp I với 51.215 học sinh. Năm 1965, toàn tỉnh có 8 lớp cấp II và 1 lớp cấp III với 500 học sinh. Tỉnh có đoàn văn công, 3 huyện miền núi có đội văn công; một số xã đồng bằng có đội văn nghệ quần chúng. Đoàn tuồng và đội chiếu phim của khu nhiều lần về các vùng giải phóng Bình Định phục vụ nhân dân. Đi đôi với đẩy mạnh tăng gia sản xuất, nhân dân vùng căn cứ, vùng giải phóng còn tích cực đóng góp lương thực, thực phẩm, dân công đáp ứng nhu cầu chiến đấu; động viên thanh niên tòng quân, nhập ngũ; đồng thời tăng cường công tác bố phòng, xây làng chiến đấu chống địch càn quét, lấn chiếm.
Quân dân Bình Định náo nức và khẩn trương chuẩn bị đón thời cơ giải phóng tỉnh nhà theo ý đồ chiến lược của Hội nghị Bộ Chính trị (tháng 9.1964): “Giành thắng lợi quyết định ở Miền Nam trong một vài năm tới...”
III)- Đánh thắng quân viễn chinh Mỹ, làm thất bại các cuộc phản công chiến lược mùa khô của địch; Tổng tấn công, nổi dậy Tết Mậu Thân-1968 (1965-1968).
Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” bị phá sản. Để cứu nguy ngụy quyền Sài Gòn, đế quốc Mỹ ồ ạt đổ quân viễn chinh và chư hầu vào miền Nam Việt Nam. Đến cuối năm 1965 toàn Miền Nam có trên 204.000 tên xâm lược Mỹ và chư hầu, trong đó tỉnh Bình Định có gần 25.000 tên. Các đội quân Mỹ sừng sỏ, hiếu chiến như Sư đoàn Kỵ binh bay số I, Lữ đoàn Dù 101 trực tiếp chốt giữ các vị trí xung yếu bảo vệ Quy Nhơn; lính đánh thuê Nam Triều Tiên chiếm giữ các điểm cao dọc quốc lộ IA và quốc lộ 19. Quân ngụy có từ 7-13 tiểu đoàn chủ lực gồm 2 trung đoàn 40 và 41 của Sư 22 Cộng hòa, 6 tiểu đoàn dù và biệt động, 20 đại đội bảo an và biệt kích, hơn 100 trung đội dân vệ, thanh niên chiến đấu, thanh niên chống du kích. Cán cân lực lượng trên chiến trường Bình Định nghiêng hẳn về phía địch.
Tháng 10.1965, địch mở hơn 400 trận càn lớn nhỏ, tập trung chủ yếu ở các huyện phía nam, nhằm răn đe và giải tỏa sức tấn công của quân dân ta, đồng thời chuẩn bị cho các cuộc phản công chiến lược mùa khô. Địch lấn chiếm 4 xã, 34 thôn, lùa xúc hơn 30.000 dân, gây thương vong hơn 3.200 người, phá hủy gần 9.115 nóc nhà. Quân Mỹ, đặc biệt là quân Nam Triều Tiên đã gây ra nhiều vụ thảm sát man rợ, đẫm máu, chủ yếu là người già, phụ nữ và trẻ em ở các huyện An Nhơn, Tuy Phước, Bình Khê, Phù Cát. Điển hình là vụ thảm sát của quân Mỹ ở Vinh quang, xã Phước Sơn (Tuy Phước), ngày 5.9.1965, làm chết và nhiễm độc nặng 60 người; vụ tàn sát tại xã Nhơn Mỹ (An Nhơn), tháng 10.1965; vụ lính Nam Triều Tiên tàn sát hơn 50 đồng bào xã Phước Hòa (Tuy Phước), trong đó có 20 trẻ em và 22 phụ nữ. Đẫm máu nhất, man rợ nhất, khủng khiếp nhất là vụ lính Nam Triều Tiên sát hại 1004 đồng bào xã Bình An (Bình Khê) trong các trận càn khốc liệt từ 22.2.1966 đến 7.4.1966.
Trước tình hình quân Mỹ và chư hầu, với trang bị vũ khí hiện đại nhảy vào Bình Định chiếm đóng những địa bàn trọng yếu, liên tiếp mở các cuộc càn quét đánh phá ác liệt, tàn sát dã man những người dân tay không tấc sắt, một bộ phận cán bộ, đảng viên, bộ đội và nhân dân nảy sinh tư tưởng sợ Mỹ, sợ ác liệt, hy sinh, không dám đánh Mỹ.
Ngày 20.7.1965, Chủ Tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ. Khu V phát động phong trào thi đua “Tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt”, phấn đấu đạt danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”. Tỉnh mở cuộc phát động tư tưởng toàn dân chống Mỹ, cứu nước; đồng thời tăng cường củng cố lực lượng vũ trang, xây dựng thôn xã chiến đấu liên hoàn, đào giao thông hào, địa đạo. Tiểu đoàn 50 bộ đội tỉnh được bổ sung đủ quân số. Tỉnh thành lập thêm Tiểu đoàn 52. Đại đội đặc công Đ10 được tăng cường thành 5 trung đội mạnh. Mỗi huyện đồng bằng thành lập 1-2 đại đội tập trung, mỗi huyện miền núi có 3-4 trung đội. Quy Nhơn phát triển tự vệ mật. Toàn tỉnh có gần 20.000 chiến sĩ du kích (chiếm 1/5 toàn khu V).
Làng chiến đấu được xây dựng vững chắc ở nhiều địa phương như các xã Hoài Thanh, Hoài Châu (Hoài Nhơn), xã Mỹ Hiệp (Phù Mỹ), các xã Bình Quang, Bình GIang (Bình Khê) v. v... Thời gian nầy, với tinh thần “Bình-Hà kết nghĩa keo sơn“, hàng nghìn con em Hà Tĩnh và con em Miền Bắc vào chi viện cho Bình Định..
Ngày 2.9.1965, tại dốc Bà Bơi, huyện Hoài Ân, Sư đoàn 3 quân Giải phóng, chủ lực quân khu V được thành lập, đứng chân hoạt động tại chiến trường Bình Định tạo thêm thế và lực mới cho quân dân tỉnh nhà.
Ngày 18.9.1965, với ý đồ tìm diệt Sư đoàn 3 quân Giải phóng, Mỹ-ngụy huy động hơn 60 máy bay lên thẳng và 2.000 quân Lữ đoàn dù 101 đổ bộ xuống vùng Thuận Ninh (xã Bình Tân, Bình Khê). Địch chưa kịp triển khai đội hình, đã bị quân ta đánh phủ đầu, diệt 200 tên, bắn rơi 11 máy bay. Chúng phải vội tháo chạy. Tiếp đó, ngày 10 và 15/10/1965, 70 máy bay lên thẳng đổ hơn 6.000 quân Mỹ phối hợp với 6 tiểu đoàn quân ngụy mở cuộc càn lớn vào thung lũng Hội Sơn (xã Cát Sơn, Phù Cát). Chúng bị quân ta giáng trả quyết liệt. Hơn 440 tên địch bị diệt, 17 máy bay bị bắn rơi. Cuộc càn bị bẻ gãy. Cũng trong đầu tháng 10/1965, các căn cứ địch ở Phù Ly (Cát Hanh, Phù Cát), Phù Mỹ, sân bay Thiết Đính, quận lỵ Bồng Sơn (Hoài Nhơn) liên tục bị ta tập kích; địch phải rút bỏ hàng loạt cứ điểm bảo vệ đường số I như Đệ Đức, Núi Nùng, Núi Chớp Vung, Tân Ôc, Thánh Giá, Bình Dương, Phù Ly, Chợ gồm.
Những trận thắng Mỹ đầu tiên ở Thuận Ninh, Hội Sơn khẳng định quân dân Bình Định có đủ khả năng đánh Mỹ và thắng Mỹ, bước đầu giải tỏa tâm lý sợ Mỹ, cổ vũ mạnh mẽ phong trào toàn dân vùng lên đánh Mỹ, cứu nước. Nhiều “Đội du kích diệt Mỹ, Đội du kích bắn máy bay Mỹ” ra đời. Thanh niên phát động phong trào “Thanh niên xông lên hàng đầu đánh Mỹ và thắng Mỹ” , thi đua tòng quân, nhập ngũ. Với phong trào “Tiếng bom Ngô Mây”, huyện Phù Cát vận động hàng trăm thanh niên nhập ngũ. Du kích nhiều xã ở Bình Khê, Tuy Phước đã dũng cảm và mưu trí dùng vũ khí thô sơ, tự tạo chặn đánh và diệt lính Mỹ, lính Nam Triều Tiên đi càn, bắn rơi 1 máy bay Mỹ ở Huỳnh Giảng (xã Phước Sơn, Tuy Phước).Thiếu nhi xã Bình Quang (Bình Khê) dùng mưu nhận chìm xuồng, giết chết lính Mỹ, lấy súng nộp cho cách mạng.
Song hành cùng tấn công vũ trang, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng nhân dân chống Mỹ cũng phát triển mạnh. Trong 2 tháng 9 và 10.1965, đã có hơn 58.000 lượt đồng bào các vùng nông thôn kéo vào Quy Nhơn tố cáo tội ác giặc Mỹ và Nam Triều Tiên, cực lực lên án quân Mỹ bắn pháo bừa bãi vào xóm làng, đòi quân Mỹ và chư hầu rút về nước...
Mùa khô 1965-1966, đế quốc Mỹ tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng chiến tranh ở Miền Nam, mở các cuộc phản công chiến lược nhằm “tìm diệt“, “ bẻ gãy xương sống của Việt cộng“. Trong “5 mũi tên” đánh phá các vùng giải phóng ở Miền Nam, mũi tấn công vào bắc Bình Định là lớn nhất. Địch huy động 2 vạn quân các loại gồm Sư đoàn Kỵ binh không vận số 1 của Mỹ, Sư đoàn 22 Cộng hòa và chiến đoàn dù ngụy, 1 trung đoàn thuộc Sư đoàn Mãnh Hổ Nam Triều Tiên, liên tiếp mở 3 cuộc hành quân đánh phá hủy diệt các huyện Hoài Nhơn, Hoài Ân, An Lão.
Sáng ngày 28.1.1966, địch tập trung quân của 21/43 tiểu đoàn trong toàn khu, bắt đầu mở cuộc hành quân “Kẻ nghiền nát” (Mashar) tấn công ồ ạt vào các xã bắc Hoài Nhơn. Sau 4 ngày đêm chiến đấu quyết liệt, quân dân Bình Định phối hợp với bộ đội chủ lực Sư đoàn 3 quân Giải phóng, đã bẻ gãy cuộc càn quét của địch, loại gần 1.000 tên, hạ hơn 50 máy bay. Trong trận thắng nầy, tại Chợ Cát (Bồng Sơn), quân Mỹ bị tiêu diệt nhiều đến mức chúng phải dùng loa phóng thanh yêu cầu ta ngừng cuộc chiến để chúng lấy xác; tại Đồi 10 (xã Hoài Châu), 3 chiến sĩ Giải phóng quân kiên cường chiến đấu đến hết đạn, trước lúc hy sinh, đập vỡ súng và hát vang bài “Giải phóng Miền Nam“.
Trong khi chiến sự xảy ra, nhân dân không quản ngại bom đạn, hy sinh, làm tốt công tác hậu cần phục vụ chiến đấu, tham gia tải đạn, cứu thương, tiếp tế thức ăn, nước uống đến tận chiến hào bộ đội ta. Tại xã Hoài Châu (Hoài Nhơn) đồng bào giấu thương binh trong bồ lúa để che mắt địch; dùng dòng sữa mẹ để hồi sức thương binh nặng...
Bị thua đau, ngày 7.2.1966, Mỹ-ngụy lồng lộn mở cuộc hành quân “Cánh trắng“ (VVhite-vving) quy mô lớn hơn, tấn công thung lũng An Lão, thẳng tay tàn sát nhiều dân thường. Quân dân ta kiên cường chống trả, loại hơn 800 tên Mỹ-ngụy, bắn rơi 8 máy bay. Ngày 14.2.1966, quân ta bẻ gãy cuộc càn quét của địch ở vườn Thơm, Nhơn Tịnh, diệt 127 tên, bắn rơi 3 máy bay.
Thi đua với quân chủ lực, bộ đội địa phương và du kích cũng lập được nhiều chiến công. Trong các trận chống càn, du kích Hoài Nhơn diệt gần 300 tên Mỹ-ngụy; du kích An Lão diệt 11 tên, có 5 lính Mỹ; du kích huyện Hoài Ân diệt 70 tên Mỹ, bắn cháy 2 trực thăng; du kích xã Hoài Hảo (Hoài Nhơn) diệt 50 tên Mỹ, trong đó có 1 trung đội bị diệt gọn; chiến sĩ du kích Phạm Tường (xã Hoài Sơn, Hoài Nhơn) diệt 35 tên Mỹ, bắn rơi 1 máy bay, đạt 2 danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ“ và “Dũng sĩ diệt máy bay“
Qua 40 ngày chiến đấu, ta tiêu diệt hơn 9.000 tên địch, có 5.160 tên Mỹ, 1.225 lính Nam Triều Tiên; bắn rơi và phá hủy 374 máy bay. Chiến thắng Bắc Bình Định, đánh bại mũi tấn công mạnh nhất, diệt nhiều quân Mỹ và máy bay nhất trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất của Mỹ ở Miền Nam, mở ra khả năng to lớn để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong thời gian tới.
Tuy bị đòn đau, nhưng đến giữa năm 1966, địch vẫn còn chiếm giữ được gần 100 chốt từ 2 trung đội trở lên; quân Mỹ và Nam Triều Tiên lập 2 hệ thống cứ điểm lớn: hệ thống bảo vệ quân cảng Quy Nhơn và đường 19; hệ thống bảo vệ quốc lộ IA.
Thừa thắng xông lên, quân dân các huyện Hoài Nhơn, Phù Cát, Bình Khê, An Nhơn liên tục tấn công, bẻ gãy nhiều cuộc càn quét của quân Nam Triều Tiên hỗ trợ quân ngụy tiến hành “bình định“ nông thôn. Đặc biệt, ngày 22.8.1966, Đại đội 2 Tiểu đoàn 52 bộ đội tỉnh, dựa vào làng chiến đấu, bẻ gãy hàng chục đợt tấn công của 3 tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn Dù 101 của Mỹ, có hàng chục máy bay lên thẳng yểm trợ, càn vào thôn Thuận Hạnh (xã Bình Thuận, Bình Khê); loại 380 tên địch, bắn cháy 8 máy bay. Trong chiến đấu, đại đội phó Võ Lai đã dũng cảm, mưu trí chỉ huy đồng đội đánh địch quyết liệt, nhưng ta ít thương vong (Võ Lai đã được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân).
Chỉ tính từ tháng 7.1965 đến tháng 7.1966, quân dân Bình Định đã loại ngoài vòng chiến đấu hơn 20.000 tên địch, có hơn 1/2 là quân Mỹ và chư hầu, diệt 4 tiểu đoàn và 21 đại đội Mỹ; bắn rơi và phá hủy 385 máy bay. Du kích nhiều xã đã tự lực đẩy lùi các trận càn từ đại đội đến tiểu đoàn Mỹ, Nam Triều Tiên. Du kích xã Cát Hanh diệt gần 400 tên địch; du kích xã Phước Hòa (Tuy Phước) bắn rơi máy bay phản lực. Các huyện trong tỉnh đều bắn hạ máy bay địch, tiêu biểu là huyện Vĩnh Thạnh.
Phong trào quần chúng nhân dân kéo vào quận lỵ, thị trấn, thị xã và đồn bốt địch đấu tranh chống Mỹ càn quét, đánh phá, gây tội ác, diễn ra khắp nơi trong tỉnh. Tại Tường Sơn (xã Hoài Sơn, Hoài Nhơn), các mẹ, các chị dũng cảm chặn đứng 1 tiểu đoàn quân Mỹ và 1 tiểu đoàn quân ngụy càn vào xã tìm diệt bộ đội Giải phóng. Tháng 6/1966, đồng bào xã Mỹ Đức (Phù Mỹ) đã khôn khéo dùng mưu làm thất bại trận càn của 30 trực thăng chở đầy lính Mỹ, bảo vệ một lớp dân y 45 người và nhiều cán bộ, bộ đội.
Tiếp tục thực hiện phản công chiến lược, mùa khô 1966-1967, Mỹ ngụy vẫn coi tỉnh Bình Định là một trong những địa bàn trọng điểm. Địch tập trung 60.000 quân (toàn khu V, địch có 350.000 quân) gồm Sư đoàn Kỵ binh bay và Lữ đoàn Dù Mỹ, Sư đoàn Mãnh Hổ Nam Triều Tiên, 2 trung đoàn và 2 chiến đoàn ngụy, 40 đại đội bảo an và biệt kích, gần 160 trung đội dân vệ, thanh niên chiến đấu và 40 đoàn “bình định“, triển khai 2 gọng kìm “bình định“ ở các huyện phía nam và “tìm diệt“ kết hợp với “bình định“ ở các huyện phía bắc. Địch mở 100 cuộc càn quét, trong đó có 2 trận quy mô trên 1 sư đoàn.
Điển hình là cuộc hành quân mang tên “Đại bàng 180“ của 30 tiểu đoàn quân Mỹ, Nam Triều Tiên và quân ngụy, được sự hỗ trợ tối đa của máy bay và phi pháo, kể cả máy bay B52 và trọng pháo của hạm đội 7, đánh phá khốc liệt kéo dài suốt 1 tháng (23.9-23.10.1966) vào căn cứ Núi Bà và vùng đông bắc Phù Cát, đông nam Phù Mỹ. Gần 1 vạn chiến sĩ, đồng bào ta bị kẹp chặt trong vòng vây của địch. Một số đơn vị của Sư đoàn 3 quân khu V, Tiểu đoàn 50, D10 đặc công của tỉnh cùng quân dân các huyện Tuy Phước, An Nhơn, Phù Cát đã chống trả địch quyết liệt. Quân ta phải vừa đánh địch, vừa luồn lách qua các vùng Mỹ đóng quân dày đặc, rút về căn cứ, bảo toàn lực lượng cách mạng. Âm mưu của địch “tìm diệt” hoàn toàn lực lượng Việt Cộng bị thất bại.
Trong vòng vây hàng tháng của địch, vượt qua mưa bom, bão đạn, hơi độc của quân thù và đói cơm, khát nước, xuất hiện nhiều tấm gương chiến đấu ngoan cường và hy sinh lẫm liệt của chiến sĩ, đồng bào ta. Du kích Nguyễn Cường (xã Cát Chánh, Phù Cát) và các mẹ Vũ Thị Mai, Trần Thị Thừa, Trần Thị Huệ... đã hy sinh bản thân hoặc đứa con ruột thịt của mình để cứu cán bộ, đồng đội và đồng bào khỏi bị chết trước mũi súng địch. Hàng nghìn cán bộ, du kích và thường dân sẵn sàng chấp nhận hy sinh vì hơi độc, đói khát trong các hang đá, quyết không để địch bắt hay chiêu hồi.
Sau khi tạm thời ổn định tình hình phía nam tỉnh, từ 7 đến 12. 2.1967, địch mở cuộc hành quân “Phóng hỏa 3” đánh phá bắc Phù Mỹ, đông bắc Hoài Ân và Hoài Nhơn. Quân dân các huyện nói trên phối hợp với một số đơn vị Sư đoàn 3 chặn đánh địch quyết liệt, diệt hơn 1.000 tên, đa số là lính Mỹ; bắn rơi 75 máy bay lên thẳng. Ngày 6.3.1967, tại Châu Trúc (xã Mỹ Đức, Phù Mỹ), ta diệt 1 tiểu đoàn quân Mỹ. Du kích thiếu niên Lê Đức Cường (xã Cát Hanh, Phù Cát), dựa vào hang đá, đẩy lùi hàng chục đợt tấn công của địch, diệt 7 tên Nam Triều Tiên. Dù bị thương nặng, em vẫn chiến đấu cho đến khi hết đạn và lấy máu mình viết vào khăn lời thề quyết tử, nhắn gởi đồng đội và gia đình.
Do ta chủ quan, không dự lường hết âm mưu, thủ đoạn đánh phá khốc liệt, dài ngày của địch, nên ở phía nam tỉnh, một số huyện ủy, xã ủy bị bật khỏi dân; vùng giải phóng bị thu hẹp, ta mất gần 35 vạn dân. Đây là tổn thất lớn nhất tứ 1955 đến 1966.
Nhằm khôi phục, phát triển phong trào cách mạng tỉnh nhà, Tỉnh mở đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn, động viên toàn Đảng bộ và quân dân trong tỉnh “Hiến kế, hiến sức chống Mỹ, cứu nước”; đẩy mạnh phong trào thi đua xây dựng Chi bộ 4 tốt, Đảng viên 4 tốt; Phụ nữ 5 tốt , Thanh niên 5 xung phong.
Thực hiện nhiệm vụ trọng tâm số 1 của tỉnh là “Chống càn quét, lấn chiếm, chống xúc tác dân, giữ vững phong trào phía bắc, khôi phục phong trào phía nam...”, trong hoạt động Đông Xuân 1966-1967, Sư đoàn 3 quân Giải phóng phối hợp với quân dân Hoài Ân, Hoài Nhơn, tấn công địch ở Long Giang, Lộc Giang (17.12.1966), Xuân Sơn (26.12.1966); tập kích căn cứ Đệ Đức (6.2.1967), diệt 3ô tên địch, phá hủy 50 máy bay lên thẳng, đốt cháy 2 kho xăng dầu. Thực hiện “4 bám” , đồng bào Hoài Nhơn, Phù Mỹ và một số địa phương phía nam tỉnh kiên quyết bám đất “một tấc không đi, một ly không rời“, xáp địch đấu tranh bảo vệ tài sản và hoa màu. Tại Hoài Nhơn, với tinh thần bám trụ cao, có gia đình phải làm nhà, làm hầm tránh pháo đến 7-8 lần. Nhân dân xã Phước Hưng (Tuy Phước) bị địch dùng máy bay lên thẳng xúc tác hàng chục lần, vẫn tìm cách trở về bám làng cũ. Tại thôn Lộc Giang (xã Ân Tường, Hoài Ân) chỉ còn một mình mẹ Diên bám trụ, dũng cảm len lỏi đến các khu vực Mỹ đóng quân, nắm tình hình địch cung cấp cho bộ đội ta...
Cuối tháng 6 đầu tháng 7.1967, toàn tỉnh mở đợt chỉnh huấn lớn trong Đảng bộ và quân dân nhằm quán triệt và lập phương án thực hiện nhiệm vụ trung tâm trước mắt là “Phá kèm, giành dân, mở rộng quyền làm chủ các vùng xung yếu...; ra sức xây dựng và phát triển lực lượng hợp pháp trong vùng địch kiểm soát”.
Thực hiện giải pháp tình thế do Tỉnh đề ra, Sư đoàn 3 tách một bộ phận thành lập những đơn vị quy mô đại đội, luồn xuống đông Hoài Nhơn, đông Phù Mỹ, cùng lực lượng địa phương chống địch “bình định“, hỗ trợ công tác xây dựng vùng yếu, tổ chức tuyển quân tại chỗ và phát triển mạng lưới hậu cần để giải quyết một phần khó khăn gay gắt trên hậu cứ.
Chỉ một thời gian ngắn, phong trào tấn công và nổi dậy của quân dân ta được khôi phục và có bước phát triển mạnh mẽ, quét sạch từng mãng lớn bọn phụ quân và ngụy quyền ở đông Hoài Nhơn và Phù Mỹ. Ở các huyện phía nam như Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước, Bình Khê, đại bộ phận cán bộ, đảng viên và lực lượng vũ trang đã bám được trong dân, đào công sự bí mật và xây dựng cơ sở hợp pháp đều khắp các khu dồn, ấp chiến lược, vùng địch kiểm soát, kể cả thị xã Quy Nhơn, luồn lót lực lượng vào sâu, diệt nhiều tên “bình định” gian ác, làm rúng động hệ thống ngụy quyền, phá lỏng kẹp nhiều nơi. An Nhơn, Tuy Phước, mỗi huyện xây dựng gần 300 cơ sở hợp pháp; Phù Cát có trên 230, Bình Khê có trên 200 cơ sở (riêng xã Bình Quang có hơn 110 cơ sở). Dù bị địch kiểm soát chặt chẽ, nhiều bà mẹ ở đông Phù Mỹ, đông Phù Cát, đông Tuy Phước, bắc Bình Khê và An Nhơn vẫn tìm mọi cách nuôi giấu, bảo vệ cán bộ, bộ đội, du kích trong hang đá, hầm bí mật.
Thời điểm nầy, sau một thời gian bị gián đoạn, đường dây liên lạc hợp pháp của tỉnh, từ căn cứ Hòn Chè (xã Cát Sơn, Phù Cát) tỏa đi khắp các huyện, thị, nhất là phía nam tỉnh, được nối lại, đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo thông suốt của tỉnh đến cơ sở.
Đầu tháng 8.1967, toàn tỉnh mở đợt hoạt động Thu nhằm đẩy địch lún sâu hơn nữa vào thế bị động, tạo thế và lực mới cho phong trào cách mạng địa phương. Ngày 21/8, quân dân Hoài Nhơn, Phù Cát phối hợp với quân chủ lực Sư đoàn 3 cắt đứt nhiều đoạn giao thông địch trên quốc lộ IA; ngày 25.8, bộ đội Sư 3 tấn công và làm chủ quận lỵ Phù Mỹ 1 đêm, tập kích trận địa pháo Đèo Nhông; ngày 5.9, tập kích kho xăng Đèo Son và diệt 1 đại đội cảnh sát dã chiến tại Chợ Dinh. Bộ đội tỉnh, huyện liên tiếp tấn công địch ở Tam Quan, Bồng Sơn (Hoài Nhơn), Mỹ Thắng (Phù Mỹ). Ngụy quyền xã thôn ở Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát, Tuy Phước và Bình Khê tiếp tục tan rã. Tại khu Đông và Bình Khê, trọng điểm “bình Định“ của địch, nhân dân 50 thôn với 20.000 nhân khẩu nổi dậy, giành quyền làm chủ.
Phong trào đấu tranh chính trị của đồng bào đô thị ngày càng phát triển. Tiêu biểu là phong trào đấu tranh của học sinh, công nhân, lao động và tín đồ Phật giáo thị xã Quy Nhơn và các quận lỵ, thị trấn trong tỉnh chống trò hề bầu cử Tổng thống (3.9.1967) và Nghị viện (22.10.1967). Ở nông thôn, nổi lên phong trào đấu tranh chống địch càn quét, cướp bóc, cày ủi ruộng vườn, đòi đền bù thiệt hại. Điển hình là cuộc đấu tranh của hơn 2.000 dân Cát Trinh (Phù Cát) chống địch cướp đất kéo dài gần 1 năm (1966-1967); cuộc đấu tranh ngày 28.8.1967 của hàng nghìn đồng bào An Nhơn, Phù Cát kéo vào sân bay Gò Quánh hỗ trợ cuộc đình công của 1.500 công nhân sân bay, bao vây bọn Mỹ và ngụy quyền tay sai, đòi chúng phải bồi thường những thiệt hại về đất đai, nhà cửa, mồ mả bị chiếm làm sân bay. Đặc biệt, phong trào đấu tranh chính trị trực diện và binh vận với quân Nam Triều Tiên bắt đầu có những chuyển biến mạnh mẽ và tích cực. Đầu tháng 7/1967, nhân vụ lính Nam Triều Tiên phục kích bắn chết 1 người dân, hơn 500 đồng bào xã Cát Hanh (Phù Cát) sôi sục căm hờn, khiêng xác nạn nhân đến đồn địch, buộc chúng phải bồi thường nhân mạng. Tại Cát Hanh và một số địa phương có quân Nam Triều Tiên đóng, hàng ngày thường xuyên có nhiều người dân, nhất là các cụ già dùng chữ Hán tìm cách tiếp xúc, trò chuyện, vận động bọn chúng không đi càn quét, phục kích, bắn giết nhân dân.
Đến cuối năm 1967, phong trào chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Bình Định chuyển dần sang thế tấn công. Tỉnh chủ trương mở đợt hoạt động Đông Xuân 1967-1968, lấy khu Đông gồm Quy Nhơn, đông bắc Tuy Phước, đông An Nhơn, đông Phù Cát làm trọng điểm chỉ đạo; thành lập Ban Cán sự Đảng khu Đông trực tiếp chỉ đạo phong trào.
Đêm 4 rạng ngày 5.12.1967, Trung đoàn 12, Sư đoàn 3, phối hợp với các lực lượng địa phương đồng loạt tấn công địch ở Gò Trạm, trung tâm huấn luyện hạ sĩ quan ngụy và 2 lần đánh vào thị trấn Đập Đá, giành chiến thắng giòn giã. Đặc biệt, một đơn vị của Trung đoàn đã diệt gọn 1 đại đội Nam Triều Tiên ở ven Núi Bà, được tặng cờ mang dòng chữ “Mặt trận Tổ quốc Triều Tiên tặng đơn vị diệt gọn lính đánh thuê Pác Chung Hi”. Các đơn vị bộ đội tỉnh phối hợp với quân dân các huyện tấn công nhiều cứ điểm và khu kho của Mỹ-ngụy ở Mỹ Chánh (Phù Mỹ), Tam Quan (Hoài Nhơn), Hải Minh (Quy Nhơn). Tại Tuy Phước, đêm 22.12.1967, ta tập kích vào quận lỵ, diệt 1 đại đội bảo an và tên quận trưởng, giải thoát hơn 200 cán bộ, đồng bào bị địch bắt giam; đánh địch ở Phú Tài, Phước Long, Phước Thành, Phước Hiệp; tập kích “ ấp chiến lược kiểu mẫu “ toàn Miền Nam vừa mới khánh thành tại Vinh Quang (Phước Sơn). Phối hợp với tấn công quân sự, nhân dân 50 thôn thuộc 10 xã xung quanh quận lỵ và đông bắc huyện nổi dậy diệt ác, phá kèm, giành quyền làm chủ gần 30.000 dân.
Trong đợt hoạt động Đông (đầu tháng 12.1967-20.1.1968), ta loại hơn 3.600 tên địch. Tính chung cả năm 1967, ta loại 20.000 tên địch, tăng 30% so với năm 1966, trong đó có hơn 1/2 là quân Mỹ và chư hầu; riêng du kích loại 1.700 tên. Hai huyện Hoài Nhơn và Phù Mỹ có phong trào chiến tranh du kích dẫn đầu tỉnh: du kích xã đã diệt gọn từng tiểu đội, trung đội địch.
Sau hơn 2 mùa khô sử dụng 3 sư đoàn quân tinh nhuệ (Sư đoàn Kỵ binh bay Mỹ, Sư đoàn Mạnh Hổ Nam Triều Tiên, Sư đoàn 22 ngụy) dồn sức phản công lực lượng cách mạng, nhưng trên chiến trường Bình Định, địch không thể xoay chuyển tình thế, vẫn lâm vào thế bị động. Năm 1968, quân số địch còn 65.000 tên (toàn khu có 367.000 tên), gồm Lữ đoàn 2 Kỵ binh bay Mỹ, 2 trung đoàn Nam Triều Tiên, 1.760 lính Thái Lan và Uc; 2 chiến đoàn dù và lính thủy đánh bộ, 2 trung đoàn 40, 41 của Sư 22 ngụy; 15 chi đoàn xe tăng và bọc thép; 2 đội hải thuyền; 63 đại đội bản an, biệt kích, cảnh sát; 218 trung đội dân vệ và thanh niên chiến đấu; 46 đoàn “bình định”; 400 máy bay,153 khẩu pháo; 179 cứ điểm quân sự.
Cuối năm 1967, quân dân toàn tỉnh khẩn trương và hồ hởi chuẩn bị thực hiện quyết tâm của Trung ương Đảng “Tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định“, trong bối cảnh có nhiều khó khăn. Từ 28.12.1967 đến 25.1.1968, quân Nam Triều Tiên phối hợp với quân ngụy địa phương và 46 đoàn “bình định“ đẩy mạnh càn quét, đánh phá dữ dội các vùng giải phóng khu vực Núi Bà, đông nam Phù Cát và đông bắc An Nhơn; 2 trung đoàn 40 và 41 ngụy càn dọc quốc lộ IA, Lữ đoàn 2 Kỵ binh Mỹ càn đông nam Hoài Ân và tây Phù Mỹ, gây cho ta nhiều tổn thất và khó khăn. Lực lượng vũ trang giải phóng bị tổn thất trong 2 mùa khô chưa kịp củng cố.
Tuy nhiên, mọi công việc chuẩn bị mở chiến dịch tổng công kích có mật danh T25 vẫn được triển khai chu đáo, chặt chẽ từ trong Đảng ra ngoài quần chùng, từ lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị đến công tác hậu cần, từ tỉnh đến cơ sở, từ vùng giải phóng đến vùng địch kiểm soát.
Gần đến ngày ta mở màn chiến dịch T25, địch thường xuyên càn quét, đánh phá, lùng sục các xã Phước Sơn, Phước Thuận, Phước Hậu, nhất là các thôn Hưng Thạnh, Lương Nông là bàn đạp ta tấn công Quy Nhơn. Sự liên lạc giữa trên với dưới, giữa phía trước và phía sau, giữa trong và ngoài thị xã bị gián đoạn. Tại Quy Nhơn, gần đến giờ ta nổ súng, cơ quan Thị ủy và Thị đội Quy Nhơn bị địch đánh phá; đồng chí Bí thư Thị ủy Biên Cương, người nắm toàn bộ kế hoạch hành động của ta trong nội thị, bị địch bắt. Địch thiết quân luật, cấm thuyền bè đi lại trên đầm Thị Nại; tăng cảnh sát dã chiến, tăng quân Mỹ bảo vệ dinh Tỉnh trưởng và các vị trí then chốt...
Chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, hòa chung với khí thế tổng công kich và nổi dậy của các đô thị toàn Miền Nam, với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh“, quân dân Bình Định đồng loạt tấn công và nổi dậy ở thị xã Quy Nhơn và hầu hết các quận lỵ, thị trấn, các căn cứ quân sự xung yếu, các sân bay, kho tàng của địch trong tỉnh.
Do không nhận được lệnh hoãn giờ nổ súng, nên tại trọng điểm Quy Nhơn, theo kế hoạch, đúng 3 giờ sáng ngày 30.1.1968 (tức đêm giao thừa Tết Mậu Thân), các cánh quân của ta từ nhiều hướng đánh thốc vào nội thị. Trong khi Tiểu đoàn 50 và D10 của tỉnh cùng lúc tấn công, nhanh chóng chiếm lĩnh các vị trí then chốt trong thị xã như dinh Tỉnh trưởng, đài Phát thanh, Quân vụ thị trấn, ga xe lửa, đồn Cảnh sát Bạch Đằng, thì Trung đoàn 10 đánh chiếm đèo Cù Mông.
Nhằm hỗ trợ đòn tấn công vũ trang, mặc dù địch cấm, nhân dân nội thị vẫn đốt pháo vang trời dậy đát khiến địch càng thêm hoang mang; công nhân cắt điện nước suốt 3 ngày đêm liền; đồng bào Quy Nhơn thường xuyên tiếp tế thức ăn, nước uống cho quân Giải phóng, dựng chướng ngại vật trên các đường phố gây trở ngại cho quân ngụy hành quân.
Sau khi đánh chiếm Quân vụ thị trấn, quân ta giải thoát đống chí Bí thư Thị ủy và hàng chục cán bộ, đồng bào ta bị địch bắt giam tại đây.Tại khu chiến đài Phát thanh ngụy, chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt. D10 đặc công đã bám trụ tại đây đến ngày 5.2.1968 (6 ngày) đánh lui 4 đợt phản kích của địch, bắt 200 tù binh. Sau khi được giải thoát, đồng chí Biên Cương đến đài Phát thanh sát cánh cùng Tiểu đoàn trưởng Võ Mười và các chiến sĩ D10 chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và đã anh dũng hy sinh.
Tại đèo Cù Mông, trong các ngày 1, 2.2.1968, Trung đoàn 10 đẩy lui hàng chục đợt phản kích của 10 tiểu đoàn quân Mỹ-ngụy và Nam Triều Tiên từ ngoài vào ứng cứu.
Tại các quận lỵ, thị trấn Phù Mỹ, Hoài Nhơn, Bình Khê, Phù Cát, Hoài Ân, An Nhơn, Tuy Phước, được sự hỗ trợ đắc lực của các đơn vị chủ lực Sư đoàn 3 quân Giải phóng, quân dân địa phương cũng đồng loạt tấn công và nổi dậy trong Tết Mậu Thân.
Tiếp theo, từ 21-29.2.1968, quân ta lại tập kích Sư đoàn 22 ngụy, khu vực Mỹ đóng quân ở Đèo Son (Quy Nhơn) và công kích địch ở một số quận lỵ, thị trấn; đi đôi với phát động quần chúng nổi dậy phá kẹp, giành quyền làm chủ ở 49 thôn với hơn 20.000 dân, trong đó Phù Mỹ có 19 thôn thuộc 7 xã; Tuy Phước có 15 thôn thuộc 5 xã; An Nhơn có 9 thôn thuộc 5 xã. Đến thời điểm nầy, Hoài Nhơn làm chủ gần 10 vạn dân, có 6 xã làm chủ hoàn toàn; Phù Mỹ làm chủ 8 vạn dân; các huyện khác, phần lớn là vùng tranh chấp. Vùng giải phóng và vùng tranh chấp mở rộng sát thị xã, quận lỵ. Vùng giải phóng nối từ bắc Hoài Nhơn đến Vĩnh Lợi (xã Mỹ Thành, Phù Mỹ), từ Núi Bà đến gần Quy Nhơn.
Chấp hành mệnh lệnh mở cuộc tổng tấn công đợt 2 (đợt Hè) toàn Miền Nam, đêm 4.5.1968, quân Bình Định đồng loạt tấn công 8 cứ điểm địch dọc quốc lộ IA, đoạn bắc Phù Mỹ, nhằm kéo lữ dù 173 của Mỹ đến giải tỏa để tiêu diệt. Từ 6 đến 25.5, tại 3 khu vực quyết chiến là Mỹ Lộc, Mỹ Trinh (Phù Mỹ) và Ân Tường (Hoài Ân), ta đánh quỵ lữ dù 173; bắn cháy và phá hỏng 76/100 xe tăng và xe học thép của Mỹ-ngụy đến giải tỏa. Phối hợp với sư đoàn 3 tấn công lữ dù Mỹ, bộ đội tỉnh tấn công sư đoàn bộ sư 22 ngụy tại Tháp Bánh It và quân ngụy đóng tại Phú Tài. Ngày 6.5.1968, quân ta diệt 1 đại đội bảo an ở Lương Nông (Phước Hậu, Tuy Phước); ngày 10.6, diệt 1 đại đội Nam Triều Tiên ở Cát Thắng (Phù Cát).
Trong đợt 3 (đợt Thu) tổng công kích và nổi dậy toàn Miền Nam, đêm 11.8.1968, các đơn vị đặc công của khu, tỉnh và du kích xã tấn công một loạt cứ điểm địch ở Quy Nhơn, Phước Sơn (Tuy Phước); đánh quân Nam Triều Tiên ở Cát Nhơn, Cát Thắng (Phù Cát); đánh phá giao thông địch trên các quốc lộ 1 và 19.
Tính chung cả năm 1968, ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 30.000 tên địch, trong đó có 42 đại đội (15 đại đội Mỹ, 5 đại đội Nam Triều Tiên) và 75 trung đội bị diệt; bắn rơi và phá hủy 218 máy bay, 888 xe quân sự (có 221 xe tăng và xe bọc thép). Sau 1 năm tấn công và nổi dậy, lực lượng vũ trang và chính trị của ta bị tổn thất cao nhất, tính từ 1961 đến 1968, nhất là trong Tết Mậu Thân.
Trung tuần tháng 11.1968, tại vùng căn cứ Vĩnh Thạnh, Đảng bộ tỉnh họp Đại hội lần thứ VII (lần thứ 3 thời chống Mỹ) đề ra phương hướng nhiệm vụ tiếp tục đẩy mạnh tấn công và nổi dậy cùng quân dân toàn khu và toàn miền “giành thắng lợi quyết định“.
IV)- Đánh bại các kế hoạch ”bình định“ của địch; giành thắng lợi to lớn trong Chiến dịch tấn công tổng hợp Xuân Hè 1972.
Sau đòn thua đau choáng váng trong Tết Mậu Thân, chiến lược “chiến tranh cục bộ“ bị phá sản, đế quốc Mỹ buộc phải xuống thang chiến tranh. Từ năm 1969, Mỹ bắt đầu thực hiện “Việt Nam hóa chiến tranh“, với mưu đồ dùng sức mạnh tối đa về quân sự kết hợp với những thủ đoạn về chính trị và ngoại giao hòng giành thế mạnh, cô lập và bóp nghẹt cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Địch coi “bình định nông thôn“ vừa là mục tiêu, vừa là biện pháp then chốt và là “chìa khóa“ quyết định sự sống còn của ngụy quyền Sài Gòn và sự thành bại của “Việt Nam hóa chiến tranh“.
Tại tỉnh Bình Định, quân số địch khoảng 56.000 tên (toàn khu có 389.800 tên). Quân chủ lực địch gồm có Lữ dù 173 Mỹ, 2 trung đoàn Sư Mạnh Hổ Nam Triều Tiên, 2 trung đoàn 40, 41 Sư 22 ngụy. Quân địa phương có 73 đại đội, 6 trung đội bảo an, thám báo và cảnh sát dã chiến; 354 trung đội dân vệ và thanh niên chiến đấu và 60 đoàn “bình định“; so với năm 1968, tăng 10 đại đội và 142 trung đội. Lực lượng phòng vệ dân sự tăng ồ ạt, từ 900 tên cuối năm 1968 tăng lên 9.000 tên vào tháng 11/1969. Ngoài ra, Mỹ-ngụy còn điều 2 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 4 Mỹ từ Gia Lai xuống và 1 trung đoàn của Sư đoàn Bạch Mã Nam Triều Tiên từ Phú Yên ra để tăng cường lực lượng quân sự địch tại Bình Định.
Năm 1969, tỉnh Bình Định vẫn là trọng điểm đánh phá của địch. Từ cuối năm 1968, Mỹ-ngụy bắt đầu thực hiện thí điểm kế hoạch “ bình định cấp tốc “ tại các xã Ân Thạnh (Hoài Ân), Hoài Mỹ (Hoài Nhơn), Mỹ Tài (Phù Mỹ). Đầu năm 1969, địch đề ra kế hoạch “bình định và xây dựng 1969“ với tham vọng kiểm soát 619/659 thôn trong toàn tỉnh, trong đó “bình định trọng điểm“182 thôn, giành lại 160.000 dân vùng giải phóng và vùng ta làm chủ; củng cố 104 thôn vùng tranh chấp và lỏng kẹp; nuôi dưỡng và phát triển 330 thôn vùng địch kiểm soát. Tháng 4.1969, tên đại tá Nguyễn Mộng Hùng khét tiếng gian ác, có nhiều nợ máu với đồng bào vùng đồng bằng sông Cửu Long được điều ra làm Tỉnh trưởng kiêm Chỉ huy trưởng Tiểu khu Bình Định. Địch chia huyện Hoài Nhơn thành 2 quận để kìm kẹp, đánh phá: quận Tam Quan gồm 6 xã phía bắc, quận Hoài Nhơn gồm 16 xã phía nam.
Phía bắc tỉnh, lữ dù Mỹ cùng 2 trung đoàn 40, 41 ngụy, với sự yểm trợ tối đa của phi pháo, xe tăng, thiết giáp, xe ủi đất, mở nhiều cuộc càn quét, chà đi, xác lại nhiều vùng, nhất là các xã trọng điểm “bình định” như Mỹ Lộc, Mỹ Lợi, Mỹ Thắng, Mỹ Thọ (Phù Mỹ), Hoài Hảo, Hoài Thanh, Hoài Châu, Hoài Hương (Hoài Nhơn), Ân Thạnh, Ân Tín (Hoài Ân). Xã Mỹ Thắng, thí điểm xây dựng xã thôn của ta được địch chọn làm trọng điểm “bình định cấp tốc“.
Phía nam tỉnh, quân Nam Triều Tiên mở hàng chục trận càn giải tỏa vòng ngoài, đồng thời phân tán một số đơn vị tổ chức thành từng trung đội cùng bọn bảo an, dân vệ, 30 đoàn “bình định“ và bọn ngụy quyền địa phương đánh phá ác liệt 18 xã, lấy xã Cát Hanh (Phù Cát), xã Nhơn Mỹ (An Nhơn) làm “trọng điểm bình định“.
Ở thị xã, thị trấn, quận lỵ, những địa bàn xung quanh căn cứ quân sự, các trục giao thông chiến lược, địch thường xuyên mở các cuộc hành quân cảnh sát; thực hiện “đoàn ngũ hóa“, buộc mọi người phải tham gia các tổ chức chính trị, các đảng phái phản cách mạng, đồng thời phát triển mạnh phòng vệ dân sự nhằm bôi lem, gây nghi kỵ trong nội bộ nhân dân, vô hiệu hóa quần chúng cách mạng và truy tróc cơ sở hợp pháp, du kích, tự vệ mật. Địch ra sức củng cố bộ máy chính quyền các cấp, nhất là ở cơ sở, đưa bọn ác ôn lưu vong và bọn côn đồ, lưu manh nắm bộ máy kẹp ở xã thôn.
Ở miền núi, địch tăng cường đánh phá bằng phi pháo, rải chất độc hóa học, kết hợp mở các cuộc hành quân “tìm diệt“, thọc sâu vào các vùng căn cứ cách mạng như Kim Sơn (Hoài Ân), An Lão, Vĩnh Thạnh nhằm tiêu diệt chủ lực ta và cơ quan lãnh đạo của tỉnh. Mặt khác, chúng tích cực đánh phá vùng giáp ranh, triệt phá các cửa khẩu và hành lang tiếp tế, bao vây, phong tỏa kinh tế ta.
Tết Kỷ Dậu-1969, Hồ Chủ tịch gởi Thư chúc Tết quân dân cả nước, động viên “Tiến lên, chiến sĩ, đồng bào, Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn”. Tỉnh phát động thi đua “Mùa xuân quyết thắng“ và tổ chức Đại hội liên hoan Chiến sĩ thi đua công-nông-binh toàn tỉnh; mở liền 2 đợt hoạt động Xuân (22.2-20.3.1969) và Hè (1.5-20.6.1969). Tính chung, 6 tháng đầu năm 1969, ta loại hơn 10.100 tên địch; bắn rơi 72 máy bay; bắn cháy và phá hủy 34 xe tăng và M113. Hơn 68.000 lượt nhân dân ở 100 thôn nổi dậy diệt 600 tên ác ôn, phá 68 ấp chiến lược và khu dồn, có 33 ấp bị phá banh; bao vây bức rút hàng chục chốt địch; đưa gần 2.700 dân về làng cũ. Sau nhiều lần giành giật quyết liệt với địch, ta làm chủ thêm 17 thôn của 5 xã với 14.000 dân; tranh chấp 80 thôn với 46.000 dân; phá lỏng kẹp 70 thôn với 40.000 dân.
Phong trào quần chúng đấu tranh chính trị trực diện chống địch “bình định cấp tốc“, đánh phá xóm làng; tuyên truyền giải pháp 10 điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại cuộc hòa đàm Paris. Nhân lễ Phật đãn, từ 23-30.5.1969, nhân dân Quy Nhơn và các thị trấn, quận lỵ trong tỉnh xuống đường đòi tự do tín ngưỡng, đòi trả tự do cho Hòa thượng Thích Thiện Minh, đòi dân sinh, dân chủ, chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hòa bình, hưởng ứng giải pháp 10 điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam. Tại Quy Nhơn, lễ rước Phật ở chùa Long Khánh thu hút 30.000 người tham gia; ngày 30.5, tất cả các trường học, chợ búa, nghiệp đoàn đều bãi khóa, bãi chợ, đình công, huy động 10.000 người xuống đường đấu tranh. Tại Quy Nhơn, Phù Mỹ, Hoài Nhơn, các cơ sở cách mạng tuyên truyền vận động tổ chức 50 vụ phản chiến, binh biến, diệt gần 200 tên địch, có 20 sĩ quan Mỹ-ngụy; vận động rã ngũ tập thể 7 trung đội dân vệ, thanh niên chiến đấu, 2 đoàn “bình định“; đào ngũ 460 lính bảo an, cộng hòa mang theo 137 súng nộp cho cách mạng.
Cuối tháng 6.1969, sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời, Ủy ban Cách mạng tỉnh Bình Định đổi thành Ủy ban Nhân dân Cách mạng.
Bị thua đau, địch lồng lộn đánh phá ta khốc liệt, dai dẳng và toàn diện về quân sự, chính trị, kinh tế, tình báo, nguy hiểm nhất là chiến thuật “tam giác chiến“ (tình báo chiến, tâm lý chiến và du kích chiến); cài cấy mật vụ, gián điệp, tìm mọi cách phân hóa, lôi kéo, chia rẽ quần chúng nhân dân, cô lập cơ sở cách mạng. Địch mở đợt cao điểm “bình định cấp tốc“, từ 10 xã điểm ở Phù Mỹ, Hoài Nhơn, ồ ạt mở rộng ra hơn 50 xã trong toàn tỉnh, trọng điểm là vùng giải phóng và vùng ta làm chủ mạnh ở Hoài Nhơn, Phù Mỹ, An Nhơn, bàn đạp khu Đông và ven Quy Nhơn.
Để chống lại âm mưu, thủ đoạn mới của địch, Tỉnh đề ra 2 nhiệm vụ quan trọng bậc nhất ở nông thôn là “Giành dân vùng địch kiểm soát và giữ dân; xây dựng vùng giải phóng“; ra Chỉ thị khẩn cấp về Chống nống lấn, đánh bại âm mưu “bình định cấp tốc” của địch, kiên quyết giữ vững vùng giải phóng và làm chủ.
Đêm 11 rạng ngày 12.8.1969, quân dân toàn tỉnh đồng loạt mở đợt hoạt động Thu (kéo dài đến cuối tháng 9.1969); tấn công hơn 70 vị trí đóng quân của Mỹ-ngụy và chư hầu, hàng chục ấp chiến lược, trụ sở ngụy quyền.
Trong khi cuộc tấn công và nổi dậy của quân dân ta đang diễn ra mạnh mẽ, quyết liệt thì ngày 3.9, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hay tin Chủ tịch Hồ Chí Minh tạ thế, thọ 79 tuổi. Tại Bình Định, cán bộ, đảng viên và đồng bào các vùng giải phóng tổ chức trọng thể lễ truy điệu, lập bàn thờ, bày hương hoa tại cơ quan, gia đình, chùa chiền, nhà thờ, thánh thất phúng viếng, để tang Bác; nhân dân vùng địch kiểm soát công khai lập bàn thờ, để tang Bác, nhưng địch không thể phát hiện.
Thực hiện Chỉ thị của Trung ương, Tỉnh mở đợt sinh hoạt chính trị Học tập và làm theo Di chúc của Bác trong cán bộ, đảng viên, các lực lượng vũ trang và trong toàn dấn; phát động phong trào thi đua: ”Noi gương, nối chí Bác Hồ, lập công đền ơn Người“(kéo dài từ tháng 9.1969 đến tháng 5.1970).
Mở đầu đợt thi đua đặc biệt, bộ đội tỉnh, huyện và du kích xã dồn dập tấn công hàng loạt điểm đóng quân của Mỹ-ngụy và Nam Triều Tiên ở Tuy Phước, Phù Mỹ, Quy Nhơn; đốt phá kho xăng, kho súng đạn của địch ở Phú Hòa (Quy Nhơn). Đặc biệt, 2 nữ du kích mật của xã Cát Hanh (Phù Cát) đã cải trang, ném lựu đạn vào bọn “bình định“ và bảo an đang nhậu nhẹt ở chợ Tân Dân (xã Mỹ Hiệp, Phù Mỹ); 2 thiếu niên du kích xã Mỹ Đức (Phù Mỹ) dùng mái chèo đập chết một tên ác ôn khi chở hắn qua đầm Châu Trúc.
Mở màn đợt hoạt động Đông, đêm 2 rạng ngày 3.11.1969, lực lượng vũ trang An Nhơn diệt 30 tên ác ôn đang cờ bạc gần quận lỵ; bộ đội Hoài Ân tập kích cứ điểm Long Khánh (Ân Hòa) diệt Ban chỉ huy tiểu đoàn, loại 80 tên; bộ đội Hoài Nhơn tập kích trận địa pháo Liễu An (Hoài Châu) phá hủy 2 khẩu pháo, loại 40 tên Mỹ; lực lượng vũ trang Bình Khê đánh bọn bảo an ở Định Quang (xã Bình Quang), diệt 1 trung đội. Tại Quy Nhơn, tự vệ mật tập kích 1 trung đội dân vệ ở ấp Hàm Nghi; đặc công tỉnh tập kích khu sĩ quan Mỹ ở Gành Ráng, loại 60 tên.
Năm 1969, quân dân trong tỉnh tiêu diệt và làm bị thương 24.000 tên địch, trong đó có 7 đại đội, 71 trung đội và 9 đoàn “bình định“ bị diệt; bắn rơi, bắn hỏng 197 máy bay; phá hủy và đánh hỏng 282 xe quân sự, có 50 xe tăng và bọc thép; binh vận làm rã ngũ 21 trung đội phụ quân, 4 đoàn “bình định“, 1.860 lính, 1.376 phòng vệ dân sự; phá 12 khu dồn, 29 ấp chiến lược, đưa 24.600 dân về làng cũ. Tính cả cũ và mới, ta giải phóng và làm chủ 105.000 dân (toàn khu: 838.000), tranh chấp và lỏng kẹp 95.000 dân.
Năm 1970, Mỹ-ngụy tiếp tục đẩy mạnh thực hiện kế hoạch “bình định cấp tốc” với mức độ ngày càng ác liệt và tàn bạo. Chúng liên tiếp mở hàng trăm trận càn quy mô từ 2 đại đội trở lên, có 2 trận càn quy mô trung đoàn trở lên, đánh phá vùng căn cứ, giáp ranh hòng đẩy lực lượng ta ra xa. Phía bắc tỉnh, Lữ dù 173 Mỹ càn vòng ngoài hỗ trợ 2 trung đoàn 40, 41 ngụy cùng quân địa phương đánh phá, “bình định“ bên trong. Phía nam tỉnh, 2 trung đoàn Nam Triều Tiên thường xuyên càn, lết, phục kích vùng giáp ranh, đánh phá, ngăn chặn hành lang lên xuống và cửa khẩu tiếp tế của ta; quân ngụy địa phương liên miên tổ chức các cuộc hành quân cảnh sát, lùng sâu vào thôn xã.
Nhằm chống lại các thủ đoạn đánh phá mới của địch, Tỉnh chủ trương phát động quần chúng nổi dậy cả ở nông thôn và thị xã; “Tập trung đánh bại bình định cấp tốc, ra sức giành, giữ, kéo dân ở nông thôn, làm chủ từng phần ở thị xã”. Trong phát động quần chúng và xây dựng các đoàn thể, các cấp, các ngành đều thực hiện “5 phát “(phát động tư tưởng, phát động căm thù, phát huy thành tích, phát huy khí thế, phát động thi đua); đẩy lùi, khắc phục tư tưởng sợ chết, tư tưởng tiêu cực, cầm chừng.
Tháng 2.1970, Tỉnh quyết định mở chiến dịch Xuân Hè 1970 với phương châm “Kìm Mỹ, diệt ngụy, phá kèm, giành dân“. Mở màn chiến dịch, đêm 31.3 rạng 1.4.1970, đặc công Sư đoàn 3 tấn công căn cứ Núi Lá (Phù Mỹ), diệt một tiểu đoàn của Trung đoàn 41, Sư 22 ngụy. Ngày 5.4, 1 tiểu đoàn của Lữ Dù 173 Mỹ đổ bộ xuống Đồi Tranh (xã Mỹ Hiệp, Phù Mỹ) và Rừng Dầu (xã Cát Sơn, Phù Cát) liền bị các lực lượng vũ trang địa phương giáng trả quyết liệt, buộc phải tháo chạy. Cùng thời gian trên, một bộ phận của Sư đoàn 3 quân Giải phóng thọc sâu xuống đông Phù Mỹ, tấn công một loạt ấp chiến lược ở các xã Mỹ Đức, Mỹ Thắng, Mỹ Thọ, Mỹ Chánh, diệt hơn 100 tên bảo an, dân vệ và “ bình định “. Ngày 8.4.1970, Trung đoàn 41, Sư 22 ngụy ở căn cứ Trà Quang đưa 1 chi đoàn xe bọc thép xuống cứu nguy cho đồng bọn, liền bị quân ta tiêu diệt trên đoạn đường Mỹ Chánh-Mỹ Thọ.
Tại các huyện, thị phía nam, bộ đội địa phương và du kích xã thôn tập kích các khu kho Gành Ráng, Đèo Son, diệt địch ở Đập Đá (An Nhơn), Cát Trinh (Phù Cát), Quán Cầu (Tuy Phước). Quần chúng nhân dân các huyện nổi dậy diệt ác, phá kèm, giành quyền làm chủ, tấn công chính trị, binh vận các lực lượng địch đang làm nhiệm vụ “ bình định “ nông thôn. Ba huyện Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước giành quyền làm chủ, tranh chấp và phá lỏng kẹp ở 20 thôn với 20.000 dân. Nhân dân vùng bị chiếm ở Hoài Ân, Hoài Nhơn, bắc Phù Mỹ đấu tranh chống địch phát quang, rào làng, gom dân vào ấp chiến lược, khu dồn.
Để giành lại thế chủ động, đầu tháng 5.1970, Mỹ-ngụy dùng 4 tiểu đoàn của Sư đoàn 4 và Lữ Dù 101 Mỹ càn vào căn cứ của tỉnh ở Vĩnh Thạnh và đông bắc Bình Khê. Tiếp theo, từ 16-30.6.1970, 6 tiểu đoàn của Lữ Dù 173 Mỹ cùng quân Nam Triều Tiên và chủ lực ngụy càn vào tây Phù Mỹ, tây Phù Cát, tây bắc An Nhơn. Cả 2 trận càn “tìm diệt“ nói trên của địch đều bị quân dân ta đánh tơi tả, phải tháo lui.
Các đội diệt ác, các đội du kích thiếu nhi hợp pháp ở Hoài Thanh, Hoài Châu (Hoài Nhơn), Mỹ Đức (Phù Mỹ), Cát Hanh (Phù Cát), Nhơn Mỹ (An Nhơn), những đội an ninh mật của Hoài Nhơn, Phù Cát với những chiến sĩ tiêu biểu như Phạm Thị Đào, Nguyễn Thị Phúc, Võ Thị Huy (đều đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân) thông minh và táo bạo luồn sâu vào vùng địch, diệt hàng chục tên ác ôn có nhiều nợ máu với nhân dân, hỗ trợ quần chúng nổi dậy mạnh mẽ.
Kết thúc chiến dịch Xuân Hè (1.4 đến 16.6.1970), ta loại 11.000 tên địch (có 275 ác ôn và 7.000 tên kẹp); diệt 1 tiểu đoàn, 8 đại đội, 50 trung đội và 6 đoàn “bình định“; giành lại các xã giải phóng ở Hoài Nhơn và Phù Mỹ bị địch nống lấn trong năm 1968, đồng thời mở rộng vùng làm chủ, tranh chấp và lỏng kẹp ở phía nam, hình thành 2 mảng lớn: 15 thôn thuộc các xã Mỹ Hiệp, Mỹ Tài, Mỹ Chánh của nam Phù Mỹ với 13.000 dân; 7 thôn thuộc các xã Nhơn Mỹ, Nhơn Phúc, Nhơn Khánh của tây An Nhơn với 7.000 dân.
Kế hoạch “bình định cấp tốc“ đạt hiệu quả thấp, giữa năm 1970, địch mở đợt đánh phá mới, chúng gọi là “bình định đặc biệt“, đẩy mạnh “tam giác chiến“. Ở miền núi, địch tăng cường càn quét, đánh phá, rải chất độc hóa học, phá hoại sản xuất. Tại các huyện đồng bằng phía bắc tỉnh, chúng liên tiếp mở các cuộc càn lớn từ 3-4 tiểu đoàn trở lên, gọi là “hành quân an dân”, đánh phá ác liệt các vùng ta mới giải phóng; lấn chiếm đến đâu, địch cắm chốt đến đó. Phía nam tỉnh, địch thường xuyên mở các cuộc càn lớn vào tây An Nhơn, ven đầm Thị Nại, tây Quy Nhơn. Do tinh thần quân ngụy sa sút nặng nên quân Mỹ phân tán thành từng đại đội, tiểu đội, kèm quân ngụy trong các trận càn quét nhỏ và “bình định” ở đông bắc Hoài Nhơn, Phù Mỹ; quân Nam Triều Tiên cũng xé lẻ cùng bọn bảo an, dân vệ càn quét đánh phá các xã tây Phù Cát, tây An Nhơn và đông bắc Bình Khê.
Trong các vùng địch kiểm soát, chúng ráo riết củng cố bộ máy tề xã thôn, cưỡng bức dân vào các tổ chức phản cách mạng, đẩy mạnh “tam giác chiến“, phát triển mạnh mạng lười gián điệp “phượng hoàng“, hòng vô hiệu hóa các cơ sở cách mạng và khui trục cán bộ ta ra khỏi dân. Để dễ bề kiểm soát và đánh phá cách mạng, địch nâng Quy Nhơn lên thành thị xã trực thuộc phủ Tổng thống và chia thành 2 quận Nhơn Bình và Nhơn Định. Những thủ đoạn đánh phá nói trên của địch đã gây cho ta nhiều tổn thất: hàng nghìn cán bộ, đảng viên hy sinh và bị bắt.
Trước tình hình mới, tháng 7.1970, Tỉnh chủ trương “Ra sức đánh bại ”bình định đặc biệt”, diệt kẹp, giành giữ dân; xây dựng vùng làm chủ đồng bằng và vùng căn cứ miền núi vững mạnh“. Để động viên quân dân trong tỉnh hoàn thành tốt nhiệm vụ nặng nề nói trên, Tỉnh mở đợt phát triển Đảng “Lớp Hồ Chí Minh“ và tiếp tục phát động phong trào thi đua “Noi gương, nối chí Bác Hồ, quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược“ (kéo dài đến tháng 5.1971).
Mở màn đợt hoạt động Thu, đêm 28.8.1970, ta đồng loạt tấn công gần 50 mục tiêu từ Hoài Nhơn vào Quy Nhơn, trong đó có các căn cứ quân sự quan trọng của Mỹ, chư hầu và chủ lực ngụy. Đợt này, ta loại hơn 3.520 tên địch, diệt gọn 1 đại đội, 19 trung đội. Tiếp theo là đợt Đông mở màn đêm 1.11.1970.
Tính chung, cả năm 1970, ta loại 24.000 tên địch (quân Mỹ và chư hầu chiếm 30%; lực lượng kẹp chiếm 30 %); diệt 1 tiểu đoàn, 13 đại đội, 103 trung đội; bắn rơi 157 máy bay; bắn cháy và bắn hỏng 673 xe quân sự (có 103 xe bọc thép và xe ũi); nhổ 4 chốt địch; phá hủy 4 khu dồn, đưa 11.500 dân về làng cũ; vận động rã ngũ 51 trung đội, 3 đoàn “bình định“; tổ chức 80 cuộc binh biến, nội ứng đánh sập 9 lô cốt, san bằng 1 chốt điểm ( chốt Hòn Cấm, xã Mỹ Thọ, Phù Mỹ).
Phong trào đấu tranh chống địch dùng xe ủi đất dày xéo xóm làng, xúc tác dân, chống trò bầu cử hội đồng thị, phường, xã, chống đầu độc học sinh… diễn ra mạnh mẽ ở Hoài Nhơn, Quy Nhơn, Tuy Phước, Phù Cát. Sôi sục, quyết liệt nhất là các cuộc đấu tranh của hàng vạn đồng bào Quy Nhơn rầm rộ xuống đường vào cuối năm 1970 và đầu năm 1971, chống Mỹ vô cớ bắn chết hai em học sinh Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Văn Hùng. Cuộc đấu tranh mang tính bạo lực kéo dài nhiều ngày; quần chúng bao vây các nhà lầu có lính Mỹ ở; lật nhào, đốt cháy xe Mỹ; đánh bị thương nhiều tên Mỹ và quân cảnh ngụy, khiến lính Mỹ phải lên trực thăng chạy trốn. Bọn chỉ huy cấp cao của Mỹ phải từ Sài Gòn bay ra Quy Nhơn dàn xếp với dân.
Đến cuối năm 1970, ta kiểm soát 373 thôn, với 90.000 dân (chiếm trên 56% số thôn và gần 40% số dân nông thôn trong toàn tỉnh), trong đó có 147 thôn giải phóng và làm chủ vững với 100.000 dân (so với năm 1969, tăng gần 3 lần).
Năm 1971, do Mỹ-ngụy mở các cuộc hành quân lớn đánh phá Đường 9- Nam Lào, đông bắc Campuchia và vùng 3 biên giới, nên trên chiến trường Bình Định, sự bố trí của quân địch có nhiều thay đổi. Một tiểu đoàn của Lữ 173 Mỹ được điều lên Tây Nguyên, số còn lại tiếp tục hoạt động ở Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Mỹ. Một số đơn vị của Sư đoàn Bạch Mã Nam Triều Tiên được điều từ Phú Yên ra giữ bắc và đông Phù Cát. Đại bộ phận lực lượng Trung đoàn 40, Sư 22 ngụy lên nam Tây Nguyên và đông bắc Campuchia. Một tiểu đoàn của Trung đoàn 41, Sư 22 ngụy vào Phú Yên, 2 tiểu đoàn còn lại từ Phù Mỹ vào giữ An Nhơn và Tuy Phước. Địch ra sức bắt lính, tăng quân địa phương và phụ quân: bảo an tăng lên 87 đại đội, có 3 tiểu đoàn và 5 liên đội; dân vệ tăng lên 334 trung đội; phòng vệ dân sự 320 trung đội; cảnh sát dã chiến có 5 đại đội và 10 trung đội; lực lượng “bình định” có 75 đoàn.
Quân Mỹ và Nam Triều Tiên mở nhiều trận càn vòng ngoài quy mô tiểu đoàn trở lên, hỗ trợ cho bọn bảo an và dân vệ càn và “bình định“ vòng trong; chủ lực ngụy chỉ làm nhiệm vụ chi viện. Về kế hoạch “bình định nông thôn”, địch chuyển sang “bình định nước rút”, tăng cường “tam giác chiến”, phát triển mạnh bọn điệp “phượng hoàng” (toàn tỉnh có 2.500 nữ phượng hoàng); ra sức “ bôi đen ” gia đình cách mạng.
Tỉnh chủ trương mở đợt hoạt động Xuân Hè 1971; toàn tỉnh chia thành 6 mãng, lấy mãng huyện Phù Mỹ, đông bắc Phù Cát và mãng Hoài Nhơn làm trọng điểm giành dân, trong đó Phù Mỹ, đông bắc Phù Cát là trọng điểm tấn công của chủ lực khu. Tỉnh tổ chức cho các cấp, các ngành, các lực lượng vũ trang và tất cả cán bộ, đảng viên và các cơ sở cách mạng học tập Nghị quyết Đảng nhằm xây dựng “Tư tưởng cách mạng tấn công, nói thẳng, làm tới”; mở hội nghị Du kích chiến tranh (1.11.1970), Đại hội Thi đua toàn tỉnh (đầu tháng 12/1970) nhằm tổng kết kinh nghiệm chống phá “bình định”, biểu dương điển hình tiên tiến, xây dựng “Tư tưởng cách mạng tấn công, nói thẳng, làm tới“.
Ngày 4.2.1971, mở màn đợt hoạt động Xuân, chủ lực khu mở các khu chiến ở bắc Phù Mỹ, bắc Hoài Nhơn và đường 19 nhằm kéo quân chủ lực ngụy và Nam Triều Tiên đến giải tỏa để tiêu diệt. Đồng thời, các lực lượng vũ trang địa phương đồng loạt tấn công các cứ điểm địch từ Hoài Nhơn vào Quy Nhơn.
Trong đợt hoạt động Xuân (4.2-10.3.1971), 3 thứ quân của ta loại trên 5.370 tên địch; diệt 8 đại đội, 49 trung đội, 2 đoàn “bình định”; diệt và bức rút 82 chốt.
Song hành cùng tấn công vũ trang, hơn 89.400 lượt quần chúng nổi dậy phá 5 khu dồn, đưa gần 5.620 dân về làng cũ; giải phóng 19 thôn liên mãng của các xã bắc Phù Mỹ với 13.800 dân; giành làm chủ 11 thôn ở Phù Mỹ và Hoài Nhơn với hơn 10.900 dân; tranh chấp 19 thôn ở Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước. Quần chúng tấn công binh vận làm rã 37 trung đội phụ quân của địch.
Từ 12-18.2.1971, hơn 4 vạn đồng bào Quy Nhơn xuống đường đấu tranh chống địch bắt lính, đôn quân, đưa quân ngụy tham gia xâm lược Lào và Campuchia; đòi trả lại chồng con bị đẩy ra mặt trận; đòi bồi thường thiệt hại cho thương phế binh, cô nhi, quả phụ; đòi rút nhanh, rút hết quân Mỹ và chư hầu, chấm dứt chiến tranh. Quần chúng bao vây dinh Tỉnh tsrưởng, tòa Hành chính ngụy quyền tỉnh, chiếm lĩnh khu sĩ quan Mỹ ở Gành Ráng, đánh bị thương 4 lính Mỹ và Nam Triều Tiên, phá hủy 30 xe quân sự. Cùng lúc, hàng trăm thương binh ngụy từ các mặt trận kéo về Quy Nhơn nguyền rủa Mỹ-ngụy, đòi bồi thường thiệt hại, xô xác với bọn Mỹ và cảnh sát ngụy, đập phá, cướp giật... làm cho tình hình thị xã càng thêm rối loạn, ngụy quân, ngụy quyền càng hoang mang. Tại các thị trấn Đập Đá, Bình Định (An Nhơn), Phú Phong (Bình Khê), hơn 4.100 lượt nhân dân nổi dậy rượt đánh bị thương 13 lính Mỹ, đốt 2 xe quân sự.
Nhân cơ hội ngụy quân, ngụy quyền trong tỉnh đang hoang mang, dao động trước thất bại thảm hại của Mỹ-ngụy ở Đường 9-Nam Lào và Campuchia, đêm 28.3.1971, ta mở màn đợt hoạt động Hè, tấn công địch ở 2 khu chiến bắc Phù Mỹ và tây Phù Cát, san bằng hàng loạt chốt địch ở các xã bắc Phù Mỹ; tấn công bọn bảo an ở Tân Hóa và pháo kích sân bay Gò Quánh; đánh tơi tả 2 tiểu đoàn Nam Triều Tiên và 2 đại đội bảo an có 2 chi đoàn xe bọc thép yểm trợ kéo đến giải tỏa.
Ở bắc Phù Mỹ, chủ lực khu chỉ để lại một bộ phận ở lại kìm giữ và đánh địch phản kích, còn đại bộ phận thọc xuống các xã phía đông cùng lực lượng địa phương tấn công các chốt địch, hỗ trợ quần chúng nổi dậy, lấy chốt Gò Cớ (xã Mỹ Đức) làm thí điểm dùng bạo lực quần chúng nhổ chốt. Trong khi đó, bộ đội tỉnh, huyện và du kích xã thôn dồn dập tấn công địch ở Hoài Ân, Hoài Nhơn, An Nhơn, Tuy Phước, Bình Khê.
Chốt Gò Cớ do 1 đại đội bảo an đóng giữ, áng ngữ phía đông huyện Phù Mỹ. Nhân lúc quân chủ lực ngụy bị chủ lực ta bao vây, kèm chặt trên quốc lộ IA, ngày 1.4.1971, ta huy động hơn 2.000 đồng bào xã Mỹ Đức và các vùng lân cận với vũ khí thô sơ kéo đến Gò Cớ đòi địch bồi thường nhân mạng một đồng bào vừa bị pháo chúng bắn chết. Địch chẳng những không giải quyết yêu sách của dân mà còn bắn chết thêm một người nữa. Lập tức, lực lượng vũ trang ta dùng súng cối tấn công chốt; các tổ binh vận dùng loa trấn áp tinh thần địch. Đồng thời ta huy động hàng nghìn người dân các xã trong vùng kéo đến hỗ trợ nhân dân Mỹ Đức vây chặt chốt Gò Cớ vá hàng chục chốt điểm khác. Tại Gò Cớ, quần chúng siết chặt vòng vây, không cho địch đi lấy nước; vận động chúng bỏ chốt, trả đất, giao súng lại cho dân thì sẽ được khoan hồng. Hai đại đội Cộng hòa kéo đến giải vây Gò Cớ, giữa đường bị quần chúng bao vây, chặn lại. Tối ngày 4.4, trước sự tấn công áp đảo của nhân dân, địch bỏ chốt tháo chạy.
Chốt Gò Cớ bị nhổ tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy bức rút, bức rã, bức hàng một loạt các chốt khác trong vùng. Trước sức tấn công mạnh mẽ của quân dân Phù Mỹ, hàng chục chốt địch ở Mỹ Đức, Mỹ Lợi, Mỹ Tài, Mỹ Chánh, Mỹ Thọ, Mỹ Thắng bị bức rút. Tại Hoài Nhơn, được mũi tấn công vũ trang hỗ trợ, hàng vạn nhân dân nổi dậy phá banh các khu dồn Thiện Đức, Thiện Chánh, Thiện An; bứt rút các chốt Núi Bé, Lộ Diêu, Diêu Quan, Quy Thuận; giành làm chủ 2 mãng gần 1 vạn dân: phía đông từ Tam Quan bắc vào Phù Mỹ, phía tây từ Hoài Sơn vào Hoài Hảo. Tại Hoài Ân, nhân dân và du kích bức rút các chốt Bà Dương, Gò Dê, Gò Rằng, Đồi Xá, Truông Mây. Tại Phù Cát, nhân dân nổi dậy phá khu dồn Hòa Hội. Tại An Nhơn, du kích và đồng bào Nhơn Mỹ bao vây, bắt sống và thu toàn bộ vũ khí của 1 trung đội dân vệ. Tại Tuy Phước, phối hợp với lực lượng vũ trang tấn công diệt 2 chốt địch ở Phước Long, bức rút 4 chốt ở Phước Sơn, Phước Hòa, quần chúng nổi dậy phá rã 12 trung đội phụ quân, giành lại và mở ra 14 thôn. Ở vùng ven Quy Nhơn, du kích mật xã Phước Hậu tấn công trụ sở xã giữa ban ngày.
Nhân lễ Phật đãn, ngày 9.5.1971, hàng vạn đồng bào thị xã và các thị trấn xuống đường đấu tranh đòi quân Mỹ và chư hầu phải rút nhanh, rút hết; đòi ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu phải chấp nhận các giải pháp chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ Cách mạng đưa ra tại Hội nghị Paris.
Sáu tháng đầu năm 1971, ta loại trên 1 vạn tên địch. Nhiều chi khu, quận lỵ, căn cứ địch bị ta đánh đi đánh lại nhiều lần, như nội thị và vùng ven Quy Nhơn 25 lần; chi khu-quận lỵ Phù Mỹ 6 lần; thị trấn Đập Đá 5 lần; các thị trấn, chi khu-quận lỵ khác từ 1-3 lần. Nhân dân nổi dậy bức hàng, bức rút, bức rã, san bằng 96 chốt điểm, trong đó có 72 chốt do nhân dân Phù Mỹ và Hoài Nhơn bức rút bằng 3 mũi giáp công; phá 7 khu dồn, 7 ấp chiến lược.
Đến tháng 6.1971, ta giải phóng hoàn chỉnh 53 thôn với 40.300 dân; làm chủ 70 thôn với gần 70.500 dân; tranh chấp 97 thôn với 77.200 dân; phá lỏng kẹp 98 thôn với 96.000 dân. Hoài Nhơn có 61 thôn giải phóng và làm chủ với 54.200 dân. Phù Mỹ có 40 thôn giải phóng và làm chủ với trên 29.000 dân. Hoài Ân có 20 thôn, 17.000 dân; Phù Cát có 13 thôn, 8.900 dân; Bình Khê có 10 thôn, 9.300 dân giải phóng và làm chủ. Vùng ven Quy Nhơn có 1.700 dân làm chủ.
Cuối 1971, cục diện chiến trường Miền Nam và Đông Dương chuyển biến có lợi cho ta. Tình hình địch ở Bình Định có nhiều thay đổi. Từ cuối tháng 7 đến giữa tháng 8/1971, toàn bộ quân chiến đấu Mỹ đều rút, chỉ còn lại 1 tiểu đoàn chuyên môn kỹ thuật, 1 đại đội công binh, một số cố vấn Mỹ ở các chi khu, quận lỵ và các sở chỉ huy quân ngụy. Quân Nam Triều Tiên còn 2 trung đoàn thiếu của Sư Mạnh Hổ. Các tiểu đoàn và đại đội Thái Lan, Tân Tây Lan cũng rút. Chủ lực ngụy gồm 2 trung đoàn 40 và 41 và 2 tiểu đoàn biệt động đóng ở Hoài Nhơn. Quân địa phương và phụ quân tăng nhiều so với trước: 93 đại đội bảo an, trong đó có 3 tiểu đoàn và 10 liên đội; 315 trung đội dân vệ, thanh niên chiến đấu; cảnh sát có 4 đại đội, trung đội và 85 chi với gần 600 tên. Quân số địch các loại có 53.820 tên, đóng ở 336 chốt và cứ điểm.
Địch ra sức bắt lính, đôn quân, đẩy mạnh thực hiện cơ động hóa bảo an, đẩy quân chủ lực thay thế nhiệm vụ quân Mỹ và Nam Triều Tiên. Trong thế bị động, từ “ bình định nước rút ”, địch chuyển sang “ bình định trọng điểm mới ”.
Đêm 25.8.1971, quân dân Bình Định bắt đầu mở đợt hoạt động Thu-Đông. Sau đợt Thu-Đông, vùng giải phóng và làm chủ ta giành được trong Xuân Hè căn bản được giữ vững; vùng lỏng kẹp được mở rộng, tăng thêm 70.000 dân; nhưng do bị địch đánh phá ác liệt nên có khoảng 10.000 dân vùng giải phóng chạy dạt đi nơi khác.
Trong khí thế quân dân tỉnh nhà đang giành nhiều thắng lợi, từ 15-21.9.1971, tại vùng căn cứ Vĩnh Thạnh, Đảng bộ tỉnh tiến hành Đại hội lần thứ VIII (lần thứ 4 trong kháng chiến chống Mỹ), đề ra nhiệm vụ trung tâm trong thời gian đến là “Kiên quyết đánh bại về cơ bản kế hoạch “bình định” của địch, giải phóng và giành quyền làm chủ, tranh chấp đại bộ phận nông thôn, ra sức giữ vững và xây dựng vùng ta lớn mạnh...”.
Trước tình hình ta đang thế thắng, thế chủ động, thế thuận lợi, thế đi lên, địch đang ở thế thua, thế bị động, thế khó khăn, thế đi xuống, Trung ương quyết định mở cuộc tấn công chiến lược nhằm “Giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trong thế thua, đồng thời sẵn sàng chuẩn bị kiên trì đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài...”
Cuối 1971, do bộ binh Mỹ rút hết, 2 trung đoàn Nam Triều Tiên phải vừa hỗ trợ quân ngụy “bình định”, vừa bảo tồn lực lượng để rút về nước; Sư 22 cộng hòa phải vừa rải quân canh giữ Đắc Tô, Tân Cảnh (Kon Tum), vừa cơ động đối phó với chủ lực ta ở Bình Định. Quân địa phương và phụ quân tuy đông, nhưng ô hợp, tinh thần bạc nhược. Thực hiện kế hoạch “ bình định trọng điểm mới ”, cuối 1971 đầu 1972, địch mở hàng chục cuộc càn quét đánh phá vùng giáp ranh và hành lang, cửa khẩu của ta, đồng thời tăng cường phòng thủ thị xã, quận lỵ và vùng chúng kiểm soát.
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương, Lãnh đạo tỉnh quyết định mở Chiến dịch tấn công tổng hợp Xuân Hè 1972. Nhiệm vụ của quân dân Bình Định trong chiến dịch nầy là phối hợp với Sư đoàn 3 quân chủ lực đánh vỡ một bộ phận quan trọng trong hệ thống phòng thủ cơ bản của địch ở phía bắc tỉnh, giải phóng một số huyện phía bắc và giành quyền làm chủ một số mãng phía nam tỉnh; phối hợp với chiến trường toàn khu mở ra vùng giải phóng từ nam Quảng Ngãi vào bắc Bình Định, nối liền với vùng căn cứ Gia Lai, Kon Tum.
Chiến trường chia thành 2 khu vực trọng điểm: Phía bắc do Sư đoàn 3 cùng lực lượng vũ trang các huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn và Phù Mỹ đảm nhận, trọng điểm là Hoài Ân; Phía nam do bộ đội tỉnh, huyện và du kích xã thôn nam Phù Mỹ, Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước, Bình Khê đảm nhận, trọng điểm là Đập Đá-đông Tuy Phước. Trung đoàn 12 của Sư đoàn 3 đánh cắt giao thông đường 19.
Từ tháng 11.1971, Đảng bộ và quân dân toàn tỉnh sôi nổi, khẩn trương xúc tiến các mặt công tác chuẩn bị cho chiến dịch. Đảng ủy mặt trận Bình Định được thành lập, gồm một số Ủy viên Thường vụ Khu ủy, đại diện Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3; thành lập Ban Chỉ huy Tiền phương 2 khu vực trọng điểm cùng Hội đồng Cung cấp tiền phương. Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy xuống đứng chân phía bắc tỉnh, 2 đồng chí Phó Bí Thư Tỉnh ủy đứng chân phía nam tỉnh.
Tỉnh mở các cuộc sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng bộ và quân dân nhằm làm cho tất cả cán bộ, đảng viên, các lực lượng vũ trang, các tầng lớp nhân dân vùng giải phóng và các cơ sở cách mạng trong vùng địch, quán triệt quyết tâm chiến lược của Trung ương, xây dựng tư tưởng cách mạng tấn công, tích cực tham gia chuẩn bị và sẵn sàng đứng lên tấn công và nổi dậy trong chiến dịch.
Về chuẩn bị lực lượng, tỉnh rút hơn 1.500 thanh niên nhập ngũ bổ sung cho Sư đoàn 3 và bộ đội địa phương. Lực lượng quần chúng tham gia đấu tranh chính trị và khởi nghĩa vũ trang của các huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát được ghép thành 102 tiểu đoàn và 101 đại đội có đủ các bộ phận chỉ huy, liên lạc, tiếp tế, cứu thương…, quân số 4 vạn người.
Công tác chuẩn bị vật chất, nhất là lương thực, thực phẩm, thuốc men, vũ khí, đạn dược, thiết bị chiến trường được xúc tiến khẩn trương, ráo riết. Tỉnh và Sư đoàn 3 mở “Chiến dịch gạo“, đến giữa tháng 2.1972, đã huy động gạo dự trữ đủ đáp ứng nhu cầu nuôi quân đến giữa năm. Nhân dân các xã Nhơn Thọ (An Nhơn) Bình Giang, Bình Tường, Bình Nghi (Bình Khê) nô nức bán cho ngành hậu cần hơn 300 tấn gạo và thực phẩm. Công binh quân khu và lực lượng giao thông tỉnh dầm mưa, dãi nắng mấy tháng liền để mở gần 70 km đường cho xe cơ giới nhỏ và xe thồ chạy từ Kim Sơn đi Kông Hà Nừng, Long Hòa-Cây Muối, Bồng Sơn-Hóc Đèn. Việc chuẩn bị cắt đường 19 nằm sát nách địch là cả một kỳ công. Các chiến sĩ Trung đoàn 12, Sư đoàn 3 và đội ngũ công nhân vận tải khu, tỉnh phải mất hơn 1 tháng mới đưa được vũ khí, đạn dược, vật liệu xây dựng công sự đến địa điểm tập kết. Nhân dân địa phương đã hăng hái cung cấp và vận chuyển vật liệu cho bộ đội xây công sự chiến đấu.
Nhằm đánh lạc hướng địch, 3 tháng đầu năm 1972, bộ đội tỉnh, huyện và du kích xã thôn liên tục đánh địch ở Phù Mỹ, Tuy Phước, Quy Nhơn, loại hàng trăm tên địch. Đặc biệt, ngày 1.1.1972, một nhóm 3 học sinh hợp pháp của Chi đoàn thanh niên Trần Văn Ơn, trường Trung học Cường Đễ, dùng lựu đạn đánh bị thương tên Đại tá Tỉnh trưởng Bình Định mới về nhận chức đang cùng bọn ngụy quyền tỉnh dự đêm lửa trại của học sinh tại sân vận động Quy Nhơn.
Phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng nhân dân cũng rất sôi động. Cuộc đấu tranh của nhân dân Phù Mỹ chống địch thực hiện “bình định”, “tam giác chiên“ diễn ra rất quyết liệt, mạnh mẽ và giành được quyền làm chủ thêm 5 thôn với 2.500 dân. Ngày 8.2.1972, hơn 1.000 dân xã Phước Hòa (Tuy Phước), tranh thủ được sự đồng tình của 1 trung đội nghĩa quân và tề xã thôn, nổi dậy chống lại 2 đại đội bảo an đang đánh phá phong trào cách mạng địa phương, buộc địch phải thả 15 người bị chúng bắt. Nổi bật là cuộc đấu tranh của 47.000 lượt đồng bào Hoài Ân, Hoài Nhơn bắc Phù Mỹ cực lực lên án địch sát hại Phật tử Huỳnh Thị Hiền, cơ sở hợp pháp của huyện Hoài Ân. Cuộc đấu tranh kéo dài từ 14 đến 20.3.1972. Bất chấp một lực lượng lớn quân ngụy được điều đến đối phó, quần chúng kéo vào quận lỵ Bồng Sơn, buộc tên Quận trưởng Hoài Nhơn và cả Tỉnh trưởng ngụy phải tiếp nhận và giải quyết yêu sách của dân đòi trừng trị tên giết người và bồi thường nhân mạng.
Mở màn Chiến dịch Xuân-Hè 1972, rạng ngày 9.4.1972, hòa nhịp cùng quân dân Quảng Trị, Kon Tum và Lộc Ninh, đặc công Sư đoàn 3 tấn công căn cứ Gò Loi (xã Ân Tường, Hoài Ân) do 1 liên đội bảo an đóng giữ. Cùng đêm, các đơn vị khác của Sư 3 và lực lượng vũ trang Hoài Ân diệt 6 chốt điểm xung quanh Gò Loi. Hàng trăm đồng bào các khu dồn lân cận nổi dậy bung về làng cũ.
Để giải tỏa sự uy hiếp quận lỵ Hoài Ân, ngày 10 và 11.4.1972, địch mở liên tiếp các cuộc phản kích, bị ta tiêu diệt 4 đại đội bảo an, bắn rơi 12 máy bay lên thẳng. Ngày 12.4, địch tung Chiến đoàn đặc nhiệm số 40 gồm 2 tiểu đoàn cộng hòa, 1 chi đoàn xe tăng và bọc thép từ quận lỵ Hoài Ân lên giải tỏa Gò Loi, bị quân ta chặn đánh quyết liệt.
Quân địch ở Hoài Ân thoi thóp từng giờ. Suốt 2 ngày 17 và 18.4.1972, các lực lượng vũ trang của ta dồn dập tấn công, chiếm lĩnh các chốt ngoại vi, sau đó xốc thẳng vào quận lỵ. Không chịu đựng nổi sức tấn công mãnh liệt của quân Giải phóng, rạng sáng ngày 19/4, địch phá hủy kho tàng, công sự rồi tháo chạy. Khi chúng lọt vào trận địa bao vây của quân dân ta bày sẵn tại cánh đồng Du Tự, An Chiểu (xã Ân Phong) thì toàn bộ tàn quân địch đều bị tiêu diệt và tan rã.
Trưa ngày 19.4.1972, huyện Hoài Ân với hơn 30.000 dân được hoàn toàn giải phóng. Đây là huyện đồng bằng đầu tiên của khu V được giải phóng trong kháng chiến chống Mỹ, được Đại tướng Võ Nguyên Giáp gởi điện khen ngợi.
Tình hình chiến trường diễn biến thuận lợi. Bộ Tư lệnh Quân khu V ra lệnh thay đổi lược đồ chiến dịch. Ngày 15.4, quân ta bất ngờ đồng loạt tấn công 25 mục tiêu ở bắc Phù Mỹ, từ Đèo Nhông ra nam Bồng Sơn, bao vây cụm cứ điểm Bình Dương (xã Mỹ Lợi, Phù Mỹ) và cứ điểm nổng Mồ Côi (xã Mỹ Đức, Phù Mỹ). Địch tức tốc tung 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 41 từ căn cứ Trà Quang và một số đơn vị bảo an, dân vệ ra tăng viện, giải tỏa. Hai ngày 25 và 26/4, trong khi Trung đoàn 2 Sư đoàn 3 tấn công vây hãm căn cứ địch ở Bình Dương, nổng Mồ Côi, trận địa pháo Đèo Nhông thì quân dân bắc Phù Mỹ nổi dậy tấn công diệt 6 chốt điểm, bao vây bứt rút, bức hàng 36 chốt khác ở 7 xã từ Mỹ Thọ ra Mỹ Thắng lên Mỹ Đức, đồng thời kéo đến khu vực Bình Dương-nổng Mồ Côi hỗ trợ chủ lực ta tấn công địch. Trước sức ép dữ dội của ta, 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 41 ngụy bức chạy, liền bị bộ đội ta tiêu diệt. Quân địch ở nổng Mồ Côi bị quần chúng bao vây suốt 2 ngày cũng tháo chạy; phần lớn tàn quân địch đều bị quân ta chặn đánh, tiêu diệt.
Một mảng các xã thuộc nửa phía bắc huyện Phù Mỹ hoàn toàn giải phóng, tạo thế chia cắt tỉnh Bình Định làm đôi. Trung đoàn 41, lực lượng cơ động còn lại của địch ở Bình Định bị tiêu diệt 2 tiểu đoàn. Thời cơ giải phóng huyện Hoài Nhơn xuất hiện.
Ngày 28.4, Trung đoàn 21 của Sư đoàn 3 đánh chiếm các chốt điểm xung quanh thị trấn Bồng Sơn. Sáng hôm sau, 29/4, từ các bàn đạp ngoại vi, quân ta xốc thẳng vào trung tâm quận lỵ, lần lượt đánh chiếm các đường phố, đến 11 giờ thì giải phóng quận lỵ. Tên Thiếu tá Quận trưởng chạy trốn bị ta bắn gục giữa cầu Bồng Sơn. Bọn tàn quân cải trang làm dân thường vượt cầu Bồng Sơn chạy trốn, bị nhân dân phát hiện bắt gọn.
Từ 27-29.4.1972, hàng vạn đồng bào các xã Hoài Hảo, Hoài Châu, Hoài Thanh, Hoài Hương, Hoài Mỹ được lực lượng vũ trang Hoài Nhơn hỗ trợ, nổi dậy tiêu diệt 3 chốt, bức rút, bức rã, bức hàng 62 chốt điểm địch, phá banh tất cả các ấp chiến lược, khu dồn. Tiêu biểu là đồng bào thôn Trường Lâm (xã Hoài Thanh) 7 ngày đêm liên tục bao vây quyết liệt, bức rã chốt Đồi Đảnh do 1 đại đội cộng hòa đóng giữ. Tối 30/4, Sư đoàn 3 phối hợp với quân dân các xã bắc Hoài Nhơn tấn công Đồi 10 và chi khu quân sự Tam Quan. Sáng 1.5, ta giải phóng thị trấn Tam Quan; cắt đường rút chạy của địch ra Quảng Ngãi.
Tàn quân địch dồn vào Đệ Đức. Sáng ngày 2.5, Sư đoàn 3 dùng pháo, cối hạng nặng tịch thu của địch tại Hoài Ân, bắn cấp tập làm tê liệt nhiều mục tiêu quan trọng trong căn cứ địch. Giữa lúc ấy, 150 đội “ Kéo lính, cứu lính “ của quần chúng mở cuộc tấn công binh vận bọn hỗn quân, hỗn quan. Từ các hướng, quân ta tràn vào căn cứ, lần lượt đánh chiếm các mục tiêu. Đến chiều 2.5.1972 thì ta làm chủ hoàn toàn căn cứ Đệ Đức. Một bộ phận quân địch ở đây, có M113 dẫn đầu, mở đường tháo chạy về hướng Hoài Hương thì bị bộ đội tỉnh mai phục, tiêu diệt và bắt sống hầu hết tại khu vực Núi Kho. Ngày 2.5.1972, huyện Hoài Nhơn với 110.000 dân, huyện đồng bằng thứ 2 của tỉnh Bình Định được giải phóng hoàn toàn.
Từ 8.4.1972 đến 2.5.1972, suốt 24 ngày đêm tấn công và nổi dậy, các lực lượng vũ trang ta cùng nhân dân các huyện phía bắc tỉnh đã tiêu diệt phần lớn quân chủ lực địch gồm Trung đoàn 40, 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 41; tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địa phương, phụ quân và lực lượng kẹp của địch (riêng Hoài Nhơn có 29 đại đội bảo an, 70 trung đội dân vệ, 70 trung đội thanh niên chiến đấu và phòng vệ dân sự; 77 chốt); thu 3.775 súng, có 13 khẩu pháo 105-115 ly, 25 xe quân sự, có 7 xe bọc thép.
Toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch và bộ máy ngụy quân, ngụy quyền quận, xã thôn từ bắc Phù Mỹ trở ra giáp tỉnh Quảng Ngãi đều bị quét sạch. Một vùng giải phóng rộng lớn, liên hoàn gồm 3 huyện An Lão, Hoài Ân, Hoài Nhơn và 7 xã bắc Phù Mỹ rộng gần 2.000 km2 với hơn 200.000 dân đã dược mở ra.
Phối hợp với quân dân phía bắc tỉnh, quân dân các huyện từ nam Phù Mỹ vào, trọng điểm là An Nhơn, đông Tuy Phước ào ạt vùng lên tấn công và nổi dậy. Ngày 1.4.1972, Trung đoàn 12, Sư đoàn 3 thiết lập trận địa chốt từ đông đèo An Khê xuống Đồng Phó, vừa để hỗ trợ chiến dịch Bắc Tây Nguyên, vừa kìm chân không cho địch điều quân ứng cứu đồng bọn ở bắc Bình Định. Suốt 18 ngày đêm, từ 1/4 đến 19/4, dưới mưa bom, bão đạn của quân thù, các chiến sĩ ta kiên cường trụ bám vùng cống Hang Dơi-dốc Cây Rui, đẩy lùi hàng chục đợt phản kích của quân địch có xe tăng và phi pháo yểm trợ; kìm chặt Sư đoàn Mãnh Hổ Nam Triều Tiên, loại 700 tên; làm tê liệt hoàn toàn việc tiếp tế của địch từ Quy Nhơn lên bắc Tây Nguyên.
Đêm 12.4.1972, bộ đội tỉnh cùng quân dân 4 huyện phía nam và thị xã Quy Nhơn đồng loạt tấn công địch, mở đầu chiến dịch tổng hợp Xuân Hè 1972 tại địa phương. Từ 9.4 đến 6.5.1972, quân dân Phù Cát giành quyền làm chủ 25 thôn thuộc các xã Cát Hanh, Cát Tài, Cát Minh, Cát Trinh, Cát Nhơn. Ngày 20/4, trước sức tấn công dữ dội của quân dân Vĩnh Thạnh và Bình Khê, 4 đại đội bảo an và 6 trung đội dân vệ giữ chi khu quân sự Vĩnh Thạnh tháo chạy. Thừa thắng, quân dân Bình Khê nổi dậy giải phóng hoàn toàn 3 xã Bình Thuận, Bình An, Bình Quang và 10 thôn của 2 xã Bình Giang, Bình Tường. Cùng thời gian, bộ đội địa phương của tỉnh và huyện An Nhơn tấn công địch ở Trung Lý (Nhơn Phong), An Thái (Nhơn Phúc), hỗ trợ nhân dân nổi dậy giải phóng 6 xã của 2 mãng đông và tây huyện: Nhơn An-Nhơn Phong-Nhơn Hậu và Nhơn Mỹ-Nhơn Phúc-Nhơn Khánh, hình thành thế bao vây chi khu-quận lỵ An Nhơn. Tại Tuy Phước, bộ đội ta tấn công tiêu diệt 5 trung đội bảo an, dân vệ, hỗ trợ nhân dân nổi dậy giải phóng và làm chủ 35 thôn thuộc các xã Phước Sơn, Phước Thuận, Phước Hòa, Phước Quang.
Đêm 27.5.1972, Tiểu đoàn 50 bộ đội tỉnh tập kích tiêu diệt đơn vị bảo an chốt giữ xã Phước Quang (Tuy Phước), mở đầu các hoạt động tại khu chiến Đập Đá-Nhơn Hưng (An Nhơn). Ngày 28.5, ta tổ chức trận phục kích ở Nho Lâm (Phước Quang) diệt 1 đại đội Nam Triều Tiên. Ngày 5.6, Tiểu đoàn 52 bộ đội tỉnh diệt chốt Ngãi Chánh (Nhơn Hưng) sát thị trấn Đập Đá. Ngày 6.6, 2 tiểu đoàn và 2 đại đội bảo an địch từ chi khu An Nhơn và huyện Phù Cất kéo đến giải tỏa. Tối 6.6 và cả ngày 7.6, các tiểu đoàn bộ binh của tỉnh cùng các đơn vị trợ chiến, công binh, phối hợp với bộ đội An Nhơn, đồng loạt tấn công, đánh chiếm các mục tiêu trong thị trấn Đập Đá và các chốt điểm địch từ cầu Bả Canh đến cầu Ông Chết, đồng thời tiêu diệt sở chỉ huy hành quân của địch đặt tại quận lỵ An Nhơn, pháo kích trận địa pháo địch ở Tháp Bánh It (Phước Lộc).
Trong khi ta đang dồn ép địch ở An Nhơn, Tuy Phước, ngày 2.6.1972, Sư đoàn 3 tấn công chi khu quận lỵ Phù Mỹ, mở màn đợt hoạt động Hè. Ta chiếm được quận lỵ, nhưng không chiếm được Rừng Quán, căn cứ của Trung đoàn 41 ngụy. Cũng trong ngày 2.6, biệt động Quy Nhơn đánh sập hầm ngầm sở chỉ huy Trung tâm hành quân của địch ở Tiểu khu Bình Định, diệt 40 tên sĩ quan cao cấp của ngụy, Nam Triều Tiên và một số quan chức đầu ngành ngụy quyền tỉnh. Ngày 5.6, tại xã Mỹ Hiệp (Phù Mỹ), Sư đoàn 3 đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn Trung đoàn 40 ngụy vừa mới phục hồi.
Tại khu chiến Đập Đá, ta diệt 1 tiểu đoàn và 1 đại đội bảo an; đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn bảo an khác; thu 312 súng; bắn rơi 1 máy bay lên thẳng, làm chủ thị trấn 3 ngày. Các huyện phía nam giải phóng hoàn chỉnh 10 xã và 25 thôn của 11 xã khác; giành quyền làm chủ 52 thôn ở 19 xã với gần 106.000 dân thuộc các huyện Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước, Bình Khê. Vùng ven Quy Nhơn có 2 thôn làm chủ ở 2 xã Phước Hậu và Phước Long (nay thuộc xã Nhơn Bình và phường Trần Quang Diệu, Quy Nhơn).
Kết thúc Chiến dịch Xuân Hè 1972, quân dân Bình Định tiêu diệt và làm tan rã hơn 20.000 tên địch (tổng quân số địch có 50.000 tên); giải phóng hoàn chỉnh 4 huyện An Lão, Vĩnh Thạnh, Hoài Ân, Hoài Nhơn, 10 xã bắc Phù Mỹ và 18 xã, 35 thôn thuộc các huyện phía nam với hơn 270.000 dân; làm chủ 114 thôn ở 25 xã với 60.000 dân; thành lập Ủy ban Nhân dân Cách mạng ở 4 huyện, 2 thị trấn (Tam Quan, Bồng Sơn), 37 xã, 220 thôn.
Đầu tháng 7.1972, Sư đoàn 3 được Khu điều ra Quảng Ngãi. Nhân cơ hội chủ lực quân Giải phóng không còn hoạt động tại Bình Định, địch tập trung quân của 4 trung đoàn thuộc Sư 22 ngụy vừa được phục hồi cùng 2 liên đoàn, chiến đoàn biệt động, 7 liên đoàn bảo an, 5 chi đoàn xe tăng và xe bọc thép, 2 tiểu đoàn pháo binh, với sự yểm trợ tối đa của không quân, pháo hạm đội Mỹ, mở cuộc hành quân phản kích hòng chiếm lại những vùng ta vừa giải phóng. Từ 1-14.7.1972, địch lấn chiếm và lập đầu cầu đến đèo Phủ Cũ; từ 21-28.7, địch chiếm lại các vị trí then chốt từ Bồng Sơn đến Đệ Đức, Tam Quan, khai thông quốc lộ IA. Ở phía nam, từ tháng 7 đến tháng 10.1972, địch huy động toàn bộ quân địa phương phối hợp với quân Nam Triều Tiên liên tiếp mở các cuộc hành quân giải tỏa, lấn chiếm đông bắc Bình Khê, tây và đông An Nhơn, đóng lại 58 chốt điểm, gom xúc 55.000 dân (1/2 số dân ta giải phóng và làm chủ trong Xuân Hè 1972).
Cuối tháng 7.1972, Sư đoàn 3 trở lại Bình Định, thu nhận 1.700 tân binh để bổ sung quân số, tạo thuận lợi cho quân dân các huyện phía bắc tỉnh phản công và tấn công địch; quân dân các huyện phía nam vừa chống địch phản kích, vừa mở đợt hoạt động Thu. Sư đoán 3 phối hợp với quân dân Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Mỹ liên tiếp bẻ gãy các cánh quân địch lấn chiếm Hoài Ân; đánh quân địch ở bắc Đèo Nhông, tấn công địch ở Bồng Sơn, Tam Quan, Đệ Đức. Phía nam tỉnh, từ 12.7 đến giữa tháng 8.1972, các đơn vị bộ binh và đặc công của tỉnh phối hợp với quân dân Phù Cát, Tuy Phước, Quy Nhơn tấn công tiêu diệt 7 đại đội và 4 trung đội bảo an, dân vệ ở các xã Cát Trinh (Phù Cát), Phước Hòa, Phước Sơn, Phước Thuận, Phước Quang (Tuy Phước); tấn công nhiều đồn cảnh sát địch trong nội thị Quy Nhơn, đánh chìm 2 xà lan địch ở cảng Quy Nhơn.
Đầu tháng 10.1972, ta mở đợt hoạt động Đông, tấn công hàng chục chốt điểm, khu dồn, ấp chiến lược từ nam Phù Mỹ vào Tuy Phước và vùng ven Quy Nhơn; uy hiếp căn cứ Bình Dương, quận lỵ Phù Mỹ, thị trấn Bồng Sơn, căn cứ Đệ Đức, thị trấn Tam Quan, đường quốc lộ I, đoạn từ nam Phù Cát vào đường 19.
Cuối tháng 10.1972, xuất hiện khả năng ký kết Hiệp định Paris. Cuộc đấu tranh giữa ta và địch diễn ra giằng co, quyết liệt. Địch ra sức đẩy mạnh các cuộc phản kích lấn đất, giành dân hòng tạo thế mạnh khi có giải pháp chính trị. Ta vừa kiên cường chống địch phản kích, vừa phản công, tấn công địch; đồng thời khẩn trương chuẩn bị cho đợt hoạt động thời kỳ trước, trong và sau khi Hiệp định đình chiến có hiệu lực.
Đến cuối năm 1972, ta mất 89.000 dân (phía bắc 34.000, phía nam 55.000); vùng giải phóng đồng bằng còn huyện Hoài Ân, các xã đông và tây Hoài Nhơn, đông bắc Phù Mỹ.
V)- Đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Paris. Tấn công và nổi dậy giải phóng toàn tỉnh (1973-1975).
Từ cuối tháng 12.1972, trước ngày ký kết Hiệp định Paris, Tỉnh mở đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong cán bộ, đảng viên, các lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh nhằm nắm vững những nội dung cơ bản của Hiệp định Paris, nhất là thấy rõ thắng lợi của ta, thất bại của địch, thời cơ, vận hội mới và những khó khăn, thách thức trước mắt đối với sự nghiệp giải phóng tỉnh nhà. Trên cơ sở đó, làm cho quân dân quán triệt chủ trương ta không chủ động gây xung đột vũ trang, phá hoại Hiệp định, nhưng phải chủ động và kiên quyết giáng trả mọi hành động khiêu khích, lấn chiếm của địch, giữ vững vùng giải phóng; tích cực đề phòng và khắc phục hiện tượng lơi lỏng chống địch phản kích, lấn chiếm, tư tưởng dừng lại, chờ đợi quốc tế...Ngày 27.1.1973, Hiệp định Paris được ký kết.
Tại Bình Định, trước giờ Hiệp định bắt đầu có hiệu lực, địch tập trung hơn 60% số quân hiện có tại địa phương, mở chiến dịch “Tràn ngập lãnh thổ”, lấy “bình định“, lấn chiếm nhằm xóa thế “da báo” làm mục tiêu trung tâm số 1.
Địch huy động đại bộ phân quân chủ lực, quân địa phương mở các cuộc hành quân đánh phá ác liệt, lấn chiếm, cắm cờ “ba que” các vùng giải phóng và làm chủ của ta, nhất là ở bắc Phù Mỹ, Hoài Nhơn, Hoài Ân. Đồng thời, chúng ra sức giải tỏa đường số I, đoạn nam bắc Tam Quan (Hoài Nhơn), đoạn từ nam Bồng Sơn (Hoài Nhơn) vào Chợ Gồm (xã Cát Hanh, Phù Cát).Từ ngày 6.2 đến cuối tháng 3.1973, địch tập trung gần 5 tiểu đoàn quân chủ lực, quân địa phương, 2 chi đội xe M113 và 8 trung đội dân vệ, được phi pháo yểm trợ tối đa, đánh phá ác liệt từ Chợ Gồm xuống đến Cát Minh, Cát Khánh thuộc huyện Phù Cát, nhằm lấn chiếm cho bằng được cửa biển Đề Gi và hành lang Chợ Gồm-Đề Gi.
Lấn chiếm đến đâu, địch cắm chốt và lập khu dồn, lùa xúc dồn dân đến đó. Chúng lập thêm các khu dồn mới như Rừng Quýt (Tam Quan), An Trung (Bồng Sơn), Bình Chương (Hoài Đức) dồn 15.000 dân Hoài Nhơn; Nhà Đá (Mỹ Hiệp), Mỹ Tài dồn 9.000 dân Phù Mỹ; Phú Tài (Phước Long, Tuy Phước) dồn 7.000 dân. Tính đến cuối năm 1973, địch đã đốt phá trên 12.500 ngôi nhà dân (toàn khu có 22.000 ngôi nhà dân bị địch đốt), triệt hạ 61 thôn (toàn khu 127 thôn); lấn chiếm 4 xã, 61 thôn; lùa xúc hơn 31.000 dân vùng ta.
Trong vùng địch kiểm soát, chúng thường xuyên mở các cuộc hành quân cảnh sát, ban hành 10 điều luật phát xít cấm nhân dân quan hệ giao lưu với vùng giải phóng, cấm tụ tập đông người, tuyệt đối không được nói đến hòa bình, hòa hợp, hòa giải. Mặt khác, địch tăng cường chiến tranh tâm lý; cưỡng bức nhân dân tham gia đảng Dân chủ của Nguyễn Văn Thiệu và các tổ chức phản động khác; ráo riết vây bắt thanh niên đi lính; đẩy mạnh thực hiện đoàn ngũ hóa, quân sự hóa và tình báo hóa nhân dân.
Ngay sau khi lệnh ngừng bắn bắt đầu có hiệu lực, sáng 28.1.1973, nhân dân Hoài Nhơn, Phù Mỹ tiến hành nhiều cuộc đấu tranh chính trị dựa vào nội dung Hiệp định Paris, quyết liệt và giằng co chống ngụy quân Sài Gòn lấn chiếm cắm cờ “ba que” tại một số vùng giải phóng. Hàng nghìn đồng bào Hoài Ân, có lực lượng vũ trang hỗ trợ, bao vây các chốt đỉểm và vị trí trài của địch đóng trái phép trong các vùng giải phóng, giành lại các thôn Long Quang, Long Mỹ (Ân Tín); hơn 14.000 nhân dân Hoài Nhơn bao vây các chốt điểm địch ở Đồi 10, ga Chương Hòa (Hoài Châu), chiếm lĩnh các đoạn đường số I ở Mỹ Lộc-An Thái (Tam Quan Bắc), Tài Lương-Bình Ninh (Hoài Thanh), Phú Tràng, Phố Mới (Bồng Sơn, Hoài Tân). Gần 8.000 đồng bào Phù Mỹ cùng bộ đội chiếm lĩnh nhiều đoạn đường trên quốc lộ I chạy ngang qua địa phận xã Mỹ Hiệp và đoạn Vạn An-Bình Dương (Mỹ Đức, Mỹ Lợi).
Ba tháng đầu năm 1973, các lực lượng vũ trang ta đã bẻ gãy các cuộc hành quân của địch lấn chiếm một số đoạn trên đường số I, lấn chiếm trục đường Chợ Gồm-Đề Gi và cửa biển Đề Gi, diệt nhiều đại đội và hàng trăm tên địch.
Đi đôi với các đòn trừng trị vũ trang đích đáng, phong trào đấu tranh chính trị công khai, hợp pháp đòi địch nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Paris, đòi các quyền tự do, dân chủ, chống thuế TVA, tẩy chay đảng Dân Chủ, chống 10 điều luật phát xít, chống lệnh giới nghiêm, chống đoàn ngũ hóa... diễn ra mạnh mẽ và dồn dập ở các huyện đồng bằng trong tỉnh, nhất là tại thị xã Quy Nhơn và các quận lỵ, thị trấn. Hàng nghìn đồng bào trong các khu dồn Phú Dõng, Hòa Hội (Cát Khánh, Cát Hanh, Phù Cát), Trà Thung (Mỹ Đức, Phù Mỹ) rầm rộ nổi dậy kéo nhau trở về làng cũ.
Thực hiện Hiệp định Paris, hai tháng 3 và 4.1973, tại Bến Muồng (Hoài Ân), ta trao trả cho ngụy quyền Sài Gòn 294 tù dân sự và 640 tù quân sự; đối phương cũng trao trả cho ta 1.100 tù chính trị và quân sự, trong đó có hơn 75% bị địch tra tấn thương tật, tàn phế, đã được nhân dân và chính quyền cách mạng tận tình nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh; một số được đưa ra Miền Bắc điều trị, học tập.
Đến cuối tháng 5.1973, sau những cuộc đấu tranh giữ đất, giành dân giằng co, quyết liệt, về căn bản, ta vẫn giữ được các vùng giải phóng đồng bằng gồm 24 xã và 114 thôn của 34 xã khác, với hơn 106.000 dân; vùng tranh chấp có 87 thôn của 33 xã với hơn 55.000 dân. Trong số xã giải phóng có 5 xã trắng và thưa dân.
Cuối năm 1973, địch tập trung quân đánh phá, lấn chiếm các vùng giải phóng đông Phù Mỹ, tây bắc Hoài Nhơn, đông An Nhơn, đông bắc Tuy Phước và đông bắc Bình Khê. Lấn chiếm được vùng nào, địch cho bọn bảo an đóng chốt và đẩy mạnh “bình định” tại vùng đó.
Trong vùng địch kiểm soát, chúng tăng cường chiến tranh tâm lý, ra sức mỵ dân bằng cái gọi là “cách mạng hành chánh” từ cơ sở, thực hiện “cộng đồng tái thiết”,”cộng đồng phát triển”; đẩy mạnh thực hiện kế hoạch “bình định mới” nhằm đánh phá hạ tầng cơ sở cách mạng, đánh bật và tiêu diệt lực lượng ta, đi đôi với bắt lính, đôn quân, phát triển mạnh tình báo, gián điệp. Tại các vùng căn cứ cách mạng, địch tung biệt kích, gián điệp vào sâu vùng ta để do thám, nắm tình hình, đồng thời đánh phá bằng phi pháo để bao vây, phá hoại kinh tế ta.
Thực hiện nhiệm vụ trung tâm cấp thiết trước mắt là “Đánh bại âm mưu lấn chiếm của địch”, ngày 15.8.1973, cùng với toàn liên khu và toàn Miền Nam, quân dân Bình Định mở đợt hoạt động Thu. Từ giữa tháng 8 đến cuối tháng 10/1973, quân dân Hoài Nhơn kiên cường giáng trả quyết liệt và bẻ gãy hàng chục đợt phản kích lấn chiếm của 2 trung đoàn 41, 47 thuộc Sư đoàn 22 Cộng hòa, Liên đoàn biệt động số 4 và Thiết đoàn 14 quân ngụy. Trận chiến diễn ra ác liệt nhất là tại Quy Thuận (Hoài Châu), Thiết Đính (Bồng Sơn), Trung Hóa (Tam Quan Nam), Cự Lễ (Hoài Hảo). Tại Phù Mỹ, bộ đội huyện phối hợp với du kích xã thôn tấn công tiêu diệt các chốt địch ở An Xuyên (Mỹ Chánh), Bằng Đầu (Mỹ Tài) và chống càn thắng lợi ở Mỹ Thành, Mỹ Thọ.
Tại các huyện phía nam tỉnh, bộ đội tỉnh, huyện phối hợp với du kích xã, thôn liên tục tấn công địch, hỗ trợ quần chúng nổi dậy chống “bình định”. Tại Tuy Phước, ngày 6.9.1973, ta tấn công các chốt Lạc Điền (Phước Thắng), An Hòa (Phước Quang), Phổ Trạch (Phước Thuận) loại 4 trung đội bảo an, thám kích của địch; ngày 20.9, quân ta chặn đánh 5 trung đội bảo an và dân vệ càn nống thôn Thanh Quang (Phước Thắng); nhiều lần pháo kích căn cứ Sư 22 ngụy tại Cảnh An (Phước Thành) và Phú Tài (Phước Long). Tại An Nhơn, các lực lượng vũ trang địa phương tập kích trụ sở ngụy quyền xã Nhơn An (27.9); tấn công địch ở Trung Lý, Nhơn Phong (22.10), tiêu diệt 4 trung đội dân vệ, 60 tên ác ôn. Ở Phù Cát, du kích xã Cát Chánh bắn rơi 2 máy bay trực thăng, diệt 1 trung đội dân vệ mang tên “Thần xà” do trực thăng đổ xuống vùng giải phóng xã nhà. Tự vệ mật một số xã phía nam tỉnh, tiêu biểu là các xã Cát Hanh (Phù Cát), Nhơn Mỹ (An Nhơn) liên tục diệt ác, hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá kẹp, bung về vùng giải phóng trắng và thưa dân. Huyện Tuy Phước đưa được gần 3.900 dân về các xã Phước Thắng, Phước Hưng, Phước Quang, Phước Thuận. Huyện An Nhơn đưa 5.600 dân về các xã Nhơn An, Nhơn Hậu, Nhơn Mỹ. Thực hiện chủ trương “Ba nắm”, Quy Nhơn nắm được 6.000 dân 7 thôn vùng ven và 6 khu phố nội thị; tranh thủ được 30.000 ngư dân; nắm và tranh thủ được 6 trung đội phụ quân; nắm 13 tề phường, ấp.
Trong năm 1973, 3 thứ quân của ta đã loại hơn 16.300 tên địch, đa số là quân chủ lực và bảo an cơ động; diệt 1 tiểu đoàn, 14 đại đội, 84 trung đội; đánh thiệt hại nặng 1 trung đoàn, 4 tiểu đoàn, 25 đại đội, 31 trung đội địch; bắn rơi và bắn hỏng 11 máy bay (có 6 phản lực); phá hủy và bắn hỏng 217 xe quân sự (có 128 xe tăng và bọc thép).
Đánh địch giỏi là Tiểu đoàn 50, D30 của tỉnh; biệt động Quy Nhơn; bộ đội huyện Hoài Nhơn; du kích các xã Hoài Hảo, Hoài Thanh (Hoài Nhơn), Mỹ Trinh, Mỹ Hiệp (Phù Mỹ), du kích mật Cát Hanh (Phù Cát).
Tuy bị địch tập trung đánh phá và “bình định” khốc liệt, nhưng đến cuối năm 1973, ở đồng bằng ta vẫn giữ được 17 xã và 100 thôn giải phóng hoàn chỉnh với gần 77.000 dân; làm chủ 54 thôn với 41.000 dân; tranh chấp 4 xã, 22 thôn với 100.000 dân. Tính cả dân vùng giải phóng và làm chủ của ta thì có gần 118.000 người (toàn khu V có 564.000 dân, toàn Miền Nam có 4 triệu dân giải phóng và làm chủ).
Phong trào đấu tranh chính trị công khai, hợp pháp của các tầng lớp nhân dân vùng địch đòi thi hành Hiệp định Paris, đòi quân Mỹ và chư hầu rút về nước, đòi vãn hồi hòa bình, thực hiện hòa hợp, hòa giải dân tộc, đặc biệt là phong trào đấu tranh chống địch thực hiện “đoàn ngũ hóa”, “quân sự hóa”. “tình báo hóa” diễn ra rất quyết liệt.
Công tác xây dựng vùng căn cứ, vùng giải phóng, nhất là về tăng gia sản xuất tự cung, tự cấp, tổ chức làm ăn tập thể, về phát triển giáo dục, y tế, văn hóa, văn nghệ quần chúng đạt nhiều thành quả đáng khích lệ.
Nhằm tạo một bước chuyển biến mới về tư tưởng trong cán bộ, đảng viên, các lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh nêu cao quyết tâm “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, Đảng bộ tỉnh Bình Định họp Đại hội lần thứ IX (lần thứ V trong chống Mỹ) từ 6-12.11.1973 tại làng K10, xã Vĩnh Kim, huyện Vĩnh Thạnh. Đại hội xác định nhiệm vụ trung tâm của tỉnh là “Ra sức đánh bại lấn chiếm, “bình định” của địch, khôi phục vùng ta, giành giữ dân, mở rộng quyền làm chủ, phát triển thực lực ta...”.
Sau một năm thực hiện “tràn ngập lãnh thổ”, hòng xóa “thế da báo” không đạt kết quả mong muốn, địch càng lún sâu vào thế bị động phòng ngự chiến lược. Tuy vậy, năm 1974, địch vẫn tiếp tục đẩy mạnh “bình định lấn chiếm”, coi đây là biện pháp mấu chốt để đánh bại các lực lượng vũ trang cách mạng, tái chiếm các vùng giải phóng của ta. Địch tăng cường bắt lính, đôn quân, thực hiện hiện đại hóa quân ngụy, tập trung xây dựng hoàn chỉnh 2 loại quân là lực lượng dã chiến và lực lượng lãnh thổ. Quân số địch tại Bình Định tăng lên 48.000 tên (tăng 7.000 tên so với năm 1973). Quân cơ động, tức lực lượng dã chiến gồm 2 liên đoàn biệt động và 2 trung đoàn cộng hòa. Quân địa phương và phụ quân, túc lực lượng lãnh thổ gồm 20 tiểu đoàn, 32 đại đội, 394 trung đội. Về phương tiện chiến tranh, địch có 4 chi đoàn xe tăng và bọc thép, 100 khẩu pháo, 80 máy bay (có 20 phản lực A37), 40 tàu thuyền chiến đấu, 800 xe quân sự. Trên địa bàn tỉnh, năm 1974, địch có 464 chốt (bằng đầu năm 1971), 221 vị trí trài. Phần lớn quân Cộng hòa và biệt động chốt giữ các điểm dọc đường quốc lộ IA từ Bình Đê vào Phủ Cũ và một số cao điểm ở Hoài Ân. Đại bộ phận quân bảo an chiếm giữ các vùng tranh chấp và làm chủ của ta ở Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát và Bình Khê. Lực lượng phụ quân của địch chốt giữ các vị trí trài và đánh phá tại chỗ.
Địch vẫn coi các huyện phía bắc tỉnh là trọng điểm lấn chiếm và “ bình định ” nhằm xóa “thế da báo” và tình trạng 2 chính quyền, 2 quân đội, nhưng chúng không tiến hành lấn chiếm ồ ạt như năm 1973. Tại vùng địch kiểm soát, chúng ráo riết thực hiện “đoàn ngũ hóa”,”quân sự hóa” nhân dân. Các bàn đạp, hành lang, cửa khẩu của ta ở Cát Hanh (Phù Cát), Mỹ Hiệp, Mỹ Trinh (Phù Mỹ), Hoài Xuân (Hoài Nhơn) bị địch đánh phá thường xuyên, gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất.
Nhằm làm thất bại âm mưu, thủ đoạn đánh phá mới của địch, Tỉnh chủ trương tập trung sức chuẩn bị mở Chiến dịch tổng hợp Hè-Thu 1974; trong Xuân chỉ hoạt động đệm để giữ thế chiến trường và tạo đà cho chiến dịch Hè-Thu.
Quý I năm 1974, trong đợt hoạt động Xuân, các lực lượng vũ trang của tỉnh chỉ bố trí một lực lượng hoạt động giữ thế chiến trường, còn phần lớn luân phiên học tập chính trị, huấn luyện quân sự, bổ sung quân số. Các lực lượng chính trị vừa tiến hành sinh hoạt chính trị, vừa đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tích cực tham gia xây dựng vùng ta vững mạnh toàn diện, tham gia mở đường chiến lược nối với hành lang của khu và trung ương để tiếp nhận hàng chi viện từ miền Bắc vận chuyển vào bằng xe cơ giới.
Trong hoạt động đệm, quân ta đã loại gần 3.300 tên địch, diệt 4 trung đội; san bằng 1 chốt điểm; đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn, 2 đại đội, 3 trung đội địch. Đặc biệt, ngày 22.3, đội đặc công nước 598 đánh chìm 1 tàu 10.000 tấn tại cảng Quy Nhơn; ngày 25.3, đại đội I bộ đội huyện Phù Cát diệt gọn 1 trung đội dân vệ ở xã Cát Nhơn; đêm 29.3.1974, đặc công ta tấn công tiêu diệt 2 trung đội bảo an ở bán đão Phương Mai.
Tại các vùng địch kiểm soát và vùng tranh chấp giữa ta và địch, hơn 19.000 lượt quần chúng nhân dân đã tham gia đấu tranh chính trị trực diện chống địch đàn áp, khủng bố. Ở Quy Nhơn, 4.750 thương phế binh ngụy kéo đến dinh Tỉnh trưởng đòi bán gạo và các nhu yếu phẩm.
Phong trào giành dân của các huyện phía nam chuyển biến khá. Các huyện Tuy Phước, An Nhơn, Phù Cát, Bình Khê kéo gần 13.530 dân về làng cũ sản xuất, xóa dần vùng trắng dân, trắng đất.
Đầu năm 1974, tuyến đường chiến lược 559, tức đường Hồ Chí Minh đã vào tới tây bắc Bình Định; giữa năm, tuyến vận tải cơ giới từ An Lão vào đến tây Phù Mỹ, các tuyến đường vận tải ngang dài 155 km và tuyến vận tải ven biển từ Hoài Hương (Hoài Nhơn) vào Mỹ Đức, Mỹ An (Phù Mỹ) cũng hình thành. Ta đã bí mật vận chuyển an toàn 927 tấn vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc men đưa về cất giấu tại các kho chiến dịch ở đông Phù Mỹ.
Cũng trong năm 1974, các cơ sở sản xuất tự cung, tự cấp tập trung của tỉnh lần đầu tiên được xây dựng ở An Lão, Vĩnh Thạnh và Hoài Ân, khai hoang, phục hóa, gieo trồng hàng trăm mẫu ruộng; một số đơn vị sản xuất tập trung đã sử dụng máy cày, máy kéo trong khâu làm đất.
Giữa quý 2 năm 1974, mở màn Chiến dịch tổng hợp Hè-Thu. Sư đoàn 3 tập trung lực lượng mở khu chiến trọng điểm bắc Phù Mỹ-nam Hoài Nhơn nhằm kéo lực lượng cơ động địch đến để tiêu diệt, tiêu hao, hỗ trợ quần chúng nổi dậy; lực lượng vũ trang tỉnh tập trung vào khu chiến trọng điểm đông nam Phù Mỹ-bắc Phù Cát.
Đêm 14 rạng ngày 15.5.1974, một bộ phận của Sư đoàn 3 phối hợp với lực lượng tại chỗ tấn công các chốt Hòa Mỹ (xã Bình Thuận, Bình Khê), Trà Sơn (xã Bình An, Bình Khê), một số ấp chiến lược và khu dồn tây sân bay Gò Quánh (Phù Cát); đồng thời pháo kích dữ dội vào sân bay, các trận địa pháo và chi khu Bình Khê. Bị tấn công dồn dập ở phía nam, địch vội điều một số đơn vị của Liên đoàn Biệt động số 4 đang đánh phá bắc Hoài Nhơn vào giải tỏa, nhưng bị đánh tơi tả. Mặt khác, chúng điều 1 tiểu đoàn và 1 chi đoàn xe M113 của Trung đoàn 42 từ Tây Nguyên về áng ngữ phía tây sân bay Gò Quánh.
Nhân cơ hội địch trúng kế nghi binh của ta, điều quân biệt động vào Bình Khê, đêm 20.5.1974, một số đơn vị của Sư đoàn 3 cùng quân dân Hoài Nhơn đồng loạt tấn công, nổi dậy, diệt và bức rút hàng loạt chốt địch từ Cự Tài Đông (Hoài Hảo) đến An Quy, Đồi 9, Đồi 10 (Hoài Châu); đồng thời vây ép địch ở chi khu Tam Quan, căn cứ Đệ Đức, uy hiếp mạnh đoạn đường số 1 từ Tam Quan ra đèo Bình Đê (giáp Quảng Ngãi). Sáng 21.5, hơn 10.000 lượt dân Hoài Nhơn nổi dậy bao vây các chốt điểm, tấn công binh vận, phá khu dồn Giao Hội (Hoài Tân), kéo vào thị trấn Bồng Sơn đấu tranh chính trị. Tuyến phòng thủ bắc Hoài Nhơn bị phá vỡ, địch phải điều một số đơn vị của Liên đoàn Biệt động số 6 đang lấn chiếm Hoài Ân cùng bọn bảo an kéo xuống Hoài Nhơn mở các cuộc hành quân phản kích hòng lấn chiếm lại những nơi bị mất.
Tại trọng điểm đông nam Phù Mỹ-bắc Phù Cát, đêm 18.5.1974, 2 tiểu đoàn 50 và 55 của tỉnh cùng quân dân Phù Mỹ tấn công, tiêu diệt các chốt Gò Dông (Mỹ Tài), Trung Thứ (Mỹ Chánh), hỗ trợ nhân dân 2 xã sở tại phá khu dồn Gò Rộng và Vạn Ninh, phá banh 5 ấp chiến lược, san bằng nhiều chốt điểm và vị trí trài. Địch vội điều quân bảo an đang đóng giữ ở Phù Mỹ và sân bay Gò Quánh đến giải tỏa, nhưng không có kết quả. Đêm 25.5, Tiểu đoàn 55 tập kích trụ sở ngụy quyền xã Mỹ Chánh, diệt 1 đại đội bảo an, 3 trung đội dân vệ; đuổi địch chạy khỏi 2 thôn Thái An và Chánh An. Tại Phù Cát, đêm 27.5, Tiểu đoàn 50 và D10 đặc công phối hợp với bộ đội huyện cùng du kích xã Cát Tài diệt 2 chốt Hòa Hiệp, Thái Thuận, trụ sở ngụy quyền xã và các vị trí trài của địch ở Chánh Danh, Vĩnh Thành. Ngày 28.5, địch điều 3 trung đội dân vệ từ Cát Hanh xuống giải tỏa thì bị ta diệt gọn. Đêm 29.5, ta tấn công địch ở Cát Minh, diệt 3 chốt và vị trí trài do 15 trung đội phụ quân đóng giữ. Nhân dân các xã Cát Tài, Cát Minh nổi dậy phá tan 5 ấp chiến lược. Đến 30.5.1974, ta giải phóng 5 xã liền mãng đông nam Phù Mỹ-bắc Phù Cát với 22.000 dân gồm Mỹ Chánh, Mỹ Tài, Mỹ Cát (Phù Mỹ), Cát Tài và Cát Minh (Phù Cát).
Phối hợp với 2 khu chiến trọng điểm, đêm 16.5.1974, quân dân các huyện, thị phía nam tỉnh dồn dập tấn công địch và nổi dậy ở nhiều nơi: đốt kho xăng Phú Hòa, pháo kích sân bay Quy Nhơn; diệt 10 trung đội bảo an và dân vệ ở Cát Hiệp, Cát Trinh (Phù Cát), Bình Quang (Bình Khê), Phước Long, Phước Hòa (Tuy Phước), Nhơn Lộc (An Nhơn); phá khu dồn Vườn Xoài (Bình Giang, Bình Khê), đưa 1.000 dân về làng cũ. Nhiều chốt địch nằm dọc đường 19 bị ta tấn công dữ dội. Sợ con đường chiến lược bị cắt, địch phải điều Trung đoàn 47 từ Gia Lai xuống Bình Khê, cùng Liên đoàn biệt động số 4 mở các cuộc hành quân giải tỏa đường 19 và vùng xung quanh sân bay Gò Quánh.
Phối hợp với tấn công vũ trang, hơn 5.500 lượt nhân dân và người nhà binh sĩ ngụy ở Quy Nhơn, Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước, Bình Khê kéo đến đồn bốt, cơ quan ngụy quyền xã, quận, đòi chồng con đang bị đưa đi làm bia đỡ đạn.
Cả đợt hoạt động Hè (15.5 – 5.6.1974), quân dân toàn tỉnh diệt, bức rút 48 chốt và 17 vị trí trài; giải phóng hoàn toàn 5 xã. Nhân dân tấn công binh vận làm rã 32 trung đội phụ quân (riêng Bình Khê làm rã 12 trung đội); vận động 1 đại đội bảo an và 9 trung đội dân vệ phản chiến chống lệnh hành quân giải tỏa.
Cuối tháng 6 đầu tháng 7.1974, địch điều 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 47 cộng hòa, một bộ phận của Liên đoàn Biệt động số 4 cùng 1 chi đoàn M113 từ 4 hướng: Trà Quang (Mỹ Quang, Phù Mỹ), dẹo Hòn Than (Mỹ Tài, Phù Mỹ), Cát Hanh và Đề Gi (Cát Khánh, Phù Cát) mở các đợt phản kích giải tỏa, lấn chiếm. Các cánh quân trên đều bị ta đánh bại.
Quyết không để địch gượng dậy, ta tiếp tục mở đợt hoạt động Thu. Rạng sáng ngày 26.7.1974, Sư đoàn 3 tấn công tiêu diệt cứ điểm Trực Đạo-Núi Nùng, thuộc tuyến phóng thủ của địch dài hơn 10 km trên đường số 1 bắc Phù Mỹ, đồng thời tấn công cao điểm Du Tự (Ân Tường, Hoài Ân). Từ 28-30/7, địch huy động 7 tiểu đoàn của Liên đoàn biệt động số 4, một số tiểu đoàn của Trung đoàn 42 và 47 từ Tây Nguyên xuống, được sự chi viện của Thiết đoàn 14, kéo đến giải tỏa khu chiến bắc Phù Mỹ. Chủ lực ta bao vây, chia cắt đội hình các cánh quân giải tỏa của địch; tập trung lực lượng đánh tơi tả cụm quân địch tại Núi Nùng-Mả Vôi, Trà Lương (Mỹ Trinh). Tại Hoài Ân, ta diệt 7 chốt địch cắm sâu trong vùng ta làm chủ, đẩy lùi quân ngụy xuống sát đường số 1 và ven thị trấn Bồng Sơn.
Cùng thời gian, Tiểu đoàn 53 của tỉnh và quân dân Hoài Nhơn đồng loạt tấn công địch, hỗ trợ nhân dân các xã Hoài Hảo, Hoài Châu, Hoài Thanh, Tam Quan nổi dậy bao vây, bứt rút 7 chốt địch; Tiểu đoàn 52 và Tiểu đoàn 19 công binh tỉnh phối hợp với quân dân Bình Khê tấn công, tiêu diệt các chốt địch cắm sâu vào vùng ta làm chủ ở các xã Bình An, Bình Thuận, Bình Hòa, Bình Thành, đồng thời cắt đường 19 suốt 7 ngày liền; đặc công tỉnh và khu tập kích sở chỉ huy và bãi để xe của Sư đoàn 22 ngụy tại Phước Thành (Tuy Phước), đánh chìm 1 tàu quân sự trọng tải 10.000 tấn tại cảng Quy Nhơn; lực lượng an ninh và du kích mật các huyện đột nhập diệt bọn ác ôn tận sào huyệt chúng.
Tại khu chiến trọng điểm bắc Phù Cát, đêm 27.7.1974, Tiểu đoàn 8 và D20 đặc công tỉnh tấn công cao điểm 338, chốt Gành (Cát Minh), diệt và đánh thiệt hại nặng 1 đại đội bảo an và 5 trung đội dân vệ. Tiếp đó, đêm 28 và ngày 29, bộ đội tỉnh và quân dân Phù Cát, Phù Mỹ tấn công địch ở Cát Minh, Cát Tài (Phù Cát), Mỹ Cát, Mỹ Chánh (Phù Mỹ), giành lại các xã Cát Minh, Cát Tài, Mỹ Cát và một số thôn của Mỹ Tài, Mỹ Chánh bị địch lấn chiếm vào giữa tháng 7.1974. Trước sức ép tấn công mạnh mẽ của ta, bọn bảo an và dân vệ đóng ở Đề Gi (Cát Khánh, Phù Cát) tháo chạy về Quy Nhơn. Ngày 30.7.1974, xã Cát Khánh cùng cửa Đề Gi hoàn toàn giải phóng.
Thừa thắng, đêm 12.8.1974, Tiểu đoàn 50 và Tiểu đoàn 8 của tỉnh phối hợp với quân dân địa phương mở khu chiến nam Phù Cát, tấn công, tiêu diệt 4 chốt điểm địch; diệt và làm tan rã 15 trung đội dân vệ, thanh niên chiến đấu; giải phóng 2 xã Cát Nhơn và Cát Tường. Tiếp đó, 2 ngày 13 và 14.8, ta liên tiếp bẻ gãy các cuộc phản kích của 2 tiểu đoàn bảo an, 1 tiểu đoàn biệt động được phi pháo và 1 chi đoàn xe M113 yểm trợ lấn chiếm lại những nơi bị mất. Cuối tháng 8.1974, trên đoạn đường Chợ Gồm-Chợ Gành ((Cát Hanh-Cát Minh), ta lại đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm của nhiều tiểu đoàn bảo an và biệt động địch, loại hàng trăm tên.
Trong đợt hoạt động Thu (26.7 đến cuối tháng 8.1974), quân dân tỉnh nhà đã loại hơn 3.670 tên địch; diệt 11 đại đội, 20 trung đội; đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn, 3 đại đội; diệt 27 chốt, 11 vị trí trài; bức rút 40 chốt, 11 vị trí trài; bắn cháy và bắn hỏng 18 xe M113; bắn rơi 7 máy bay (có 3 phản lực). Hơn 33.000 lượt quần chúng nổi dậy phá 14 khu dồn, cùng bộ đội diệt và bức rút 67 chốt, 22 vị trí trài, thu hồi 10 thôn bị địch lấn chiếm sau hè, mở ra 45 thôn với gần 35.000 dân.
Các cuộc tấn công bức rút các chốt khu B An Thái, Tam Quan Bắc (27-29.7), rừng Trung Hóa, Tam Quan Nam (27.7-1.8), Hoài Nhơn; Phước Thung, Mỹ Phong (Phù Mỹ) (28-29.7); các khu dồn Phú Ninh, Mỹ Lợi huyện Phù Mỹ (26.7-1.8), Chợ Gồm, Hòa Hội, Cát Hanh huyện Phù Cát (27-29.7), Hưng Mỹ, Mỹ Long (Cát Thắng, Phù Cát) và Vạn Nông (Cát Nhơn, Phù Cát) (13-15.8.1974) là những điển hình dùng bạo lực 3 mũi giáp công của nhân dân bao vây, búc rút chốt địch.
Tính chung, năm 1974, quân dân toàn tỉnh đã loại gần 18.200 tên địch (chiếm hơn 38% tổng số quân địch đầu năm 1974); diệt 3 tiểu đoàn, 37 đại đội, 120 trung đội, 1 chi đoàn và 1 chi đội xe bọc thép; diệt và bức rút 118 chốt, 22 vị trí trài; phá 14 khu dồn, 6 ấp chiến lược; thu hồi 27 thôn với gần 23.380 dân; mở ra 94 thôn với 76.000 dân.
Đến cuối năm 1974, vùng giải phóng của ta gồm 2 huyện miền núi An Lão, Vĩnh Thạnh, đại bộ phận huyện Vân Canh và huyện Hoài Ân; 18 xã, 50 thôn đồng bằng với gần 106.500 dân; vùng làm chủ có 30 thôn với gần 44.400 dân; vùng tranh chấp và lỏng kẹp có 122 thôn với hơn 121.800 dân. Cả vùng giải phóng và vùng ta làm chủ có gần 151.000 dân (dân số toàn tỉnh: 530.000 người; toàn khu có 764.000 dân giải phóng và làm chủ).
Tại vùng giải phóng và vùng ta làm chủ, đã củng cố và bầu lại 7 Ủy ban Nhân dân Cách mạng huyện, 76 Ủy ban Nhân dân Cách mạng xã, 356 Ban Nhân dân Cách mạng thôn. Sản xuất lương thực, thực phẩm được đẩy mạnh; sự nghiệp giáo dục, văn hóa, y tế phát triển khá. Tuyến đường vận tải cơ giới chiến dịch từ An Lão đến bắc đường 19 thông suốt, đảm bảo vận chuyển an toàn, đúng địa chỉ 6.000 tấn hàng phục vụ chiến đấu. Các tuyến đường thủy trên các sông An Lão, Kim Sơn, sông Côn được khơi luồng, đảm bảo thuyền trọng tải 500-1.200 kg có thể xuôi ngược trong mùa khô.
Đầu năm 1975, cách mạng Miền Nam nói chung và Bình Định nói riêng đứng trước thời cơ thuận lợi như thời kỳ cuối 1964 đầu 1965.
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng “Giải phóng Miền Nam trong 2 năm 1975, 1976” và kế hoạch thời cơ “dự kiến giải phóng Miền Nam trong năm 1975”, Tỉnh ủy đề ra mục tiêu chủ yếu của tỉnh nhà trong năm 1975 là đánh bại một bước quan trọng kế hoạch lấn chiếm và “bình định” của địch; giữ vững và mở rộng vùng ta, tiến lên giải phóng, làm chủ đại bộ phận nông thôn đồng bằng.
Chuẩn bị cho chiến dịch Xuân 1975, Tỉnh huy động dân công vận chuyển hàng ngàn tấn hàng chi viện, cất giấu tại các kho Hóc Đèn, dốc Bà Bơi (Hoài Ân); khẩn trương thi công, mở thêm các tuyến đường An Lão-Ân Nghĩa (Hoài Ân), Kon Hà Nừng-dốc Bà Bơi và tuyến dọc 2 bờ sông Côn xuống bắc đường 19 cùng các đường nhánh.
Nhận rõ trọng trách của tỉnh Bình Định là 1 trong 2 hướng chiến lược quan trọng của khu V, Bộ Chỉ huy mặt trận tỉnh bố trí đầy đủ lực lượng chủ lực và địa phương tại các khu chiến trọng yếu là đường 19, bắc Bình Khê-nam Phù Cát-đông An Nhơn và Tuy Phước và các chiến trường phối hợp ở Hoài Nhơn, Phù Mỹ, bắc Phù Cát, nam Tuy Phước, Hoài Ân và Vân Canh. Khu chiến Quy Nhơn do D10 và Tiểu đoàn đặc công 405 đảm nhiệm.
5 giờ 35 phút ngày 4.3.1975, Tiểu đoàn 19 công binh tỉnh nổ mìn đánh sập cầu 12 trên đường 19; Sư đoàn 3 quân chủ lực khu V đồng loạt nổ súng tấn công hàng chục chốt điểm địch trên đường 19, đánh thiệt hại nặng Trung đoàn 47, Sư 22 ngụy và Liên đoàn Bảo an số 927 của địch; làm chủ hàng chục cây số trên đường 19, thực hiện đòn chia cắt chiến lược hiểm hóc giữa Tây Nguyên và đồng bằng khu V. Đây cũng là trận mở màn chiến dịch Xuân 1975 trên chiến trường khu V.
Tại khu chiến đông bắc Bình Khê-tây An Nhơn, đêm 5 rạng sáng ngày 6.3.1975, D10 đặc công và Tiểu đoàn 51 của tỉnh phối hợp với lực lượng vũ trang Bình Khê tấn công tiêu diệt hầu hết các chốt điểm trong vùng, loại 15 trung đội dân vệ, phá 7 khu dồn, hỗ trợ quần chúng nổi dậy giải phóng một mãng liên hoàn 6 xã của 2 huyện Bình Khê, An Nhơn; áp sát các thị trấn Phú Phong, Đập Đá, Bình Định.
Đường 19 bị quân Giải phóng đánh chiếm, địch buộc phải vội vã điều các đơn vị cộng hòa đóng ở Phù Mỹ, Bồng Sơn vào đường 19 phản kích, giải tỏa, tạo sơ hở cho quân dân Hoài Nhơn, Phù Mỹ, nam Phù Cát, đông An Nhơn, đông bắc Tuy Phước dồn dập tấn công và nổi dậy bức rút nhiều chốt địch, giải phóng hàng chục xã.
Sau khi Buôn Ma Thuột thất thủ, Sư 23 cộng hòa bị tiêu diệt, Nguyễn Văn Thiệu chủ trương rút các lực lượng còn lại ở bắc Tây Nguyên về “tử thủ” đồng bằng duyên hải Miền Trung, thực hiện co cụm chiến lược, hòng bảo toàn lực lượng và giữ lấy những vùng quan trọng có tính chất sống còn.
Tại tỉnh Bình Định, Sư 22 Cộng hòa từ phản kích giải tỏa chuyển sang lập các cụm cứ điểm từ Bình Tường lên Đồng Phó, hình thành lá chắn ngăn chặn các binh đoàn chủ lực quân Giải phóng theo đường 19 tràn xuống Quy Nhơn. Quân chủ lực ngụy lập tuyến phòng thủ tại Tháp Bánh It (xã Phước Lộc, Tuy Phước) để phòng thủ vùng ven Quy Nhơn và trấn an tinh thần quân địa phương. Ngày 18.3.1975, bọn cố vấn Mỹ ở Bình Định rút vào Sài Gòn; các khí tài chiến tranh của địch tại sân bay Gò Quánh và Quy Nhơn cũng được di chuyển. Bọn ngụy quyền ở Quy Nhơn nháo nhác chuẩn bị “di tản”.
Từ 16 đến 31.3.1975, quân ta tấn công san bằng cứ điểm Đồng Phó, đánh bật địch ra khỏi một loạt chốt nằm dọc đường 19 (Bình Khê); đánh chiếm, làm chủ nhiều đoạn đường số I nằm trên địa phận 2 huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ; phá vỡ, cắt vụn thành từng mảnh hệ thống các chốt điểm phòng thủ của địch ở thị trấn Tam Quan, Hoài Tân-Bồng Sơn, Đèo Nhông, nam và bắc quận lỵ Phù Mỹ; pháo kích chi khu-quận lỵ Vân Canh; dồn dập tấn công, san bằng hàng chục chốt điểm địch ở Tuy Phước, giải phóng hoàn toàn 2 xã Phước Quang, Phước Hưng và phần lớn xã Phước Hiệp, nối liền với mãng vùng giải phóng đông An Nhơn-nam Phù Cát, tạo thế chia cắt chi khu quân sự Gò Bồi với chi khu-quận lỵ Tuy Phước; giải phóng hoàn toàn 20 xã, mở ra vùng làm chủ liên xã, liên huyện; tạo thế chia cắt giữa Tây Nguyên và đồng bằng Miền Trung; lập được hành lang và bàn đạp cho tổng công kích và nổi dậy giải phóng Quy Nhơn.
Ngày 23.3.1975, khu V mở chiến dịch tấn công giải phóng Huế-Đà Nẵng, chiến dịch lớn thứ 2 sau chiến dịch Tây Nguyên. Diễn biến chiến trường hết sức mau lẹ. Ngày 24.3, ta đánh chiếm các thị xã Quảng Ngãi, Tam Kỳ; ngày 25.3, thành phố Huế được giải phóng; ngày 26.3, quân ta đánh thẳng vào trung tâm thành phố Đà Nẵng.
Tại Bình Định, trên mặt trận đường 19, Sư đoàn 3 quân Giải phóng tấn công quyết liệt các đơn vị Sư 22 ngụy đóng tại Bình Phú và Bình Tường, đồng thời đánh chiếm, chốt giữ cầu Thủ Thiện Hạ (xã Bình Nghi, Bình Khê) nhằm cắt đường tháo chạy của địch về Quy Nhơn.
Nhằm hình thành một dải phòng ngự có chiều sâu, nhiều tuyến ngăn chặn từ xa để cố thủ Quy Nhơn, địch điều Trung đoàn 47 đóng tại Tháp Bánh It lui về lập tuyến phòng thủ vùng ven và trung tâm thị xã Quy Nhơn; Trung đoàn 41 từ Bình Khê về giữ khu vực Diêu Trì-Cù Mông.
Quyết không để địch kịp xoay trở, Lãnh đạo tỉnh chủ trương: Đẩy mạnh tấn công, nổi dậy đồng loạt, đánh đổ toàn bộ quân địch, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng toàn tỉnh. Khẩu hiệu hành động là: ”Xã giải phóng xã, Huyện giải phóng huyện, Tỉnh giải phóng tỉnh“. Phương châm tấn công là: “Mạnh bạo, linh hoạt, bỏ qua tuyến phòng ngự bên ngoài mà chọc thẳng vào đầu não địch“.
Ngày 25.3.1975, các lực lượng vũ trang và 3 vạn quần chúng Hoài Nhơn rầm rộ ra quân, dồn dập tấn công, bao vây 65 chốt địch, chỉ trong 1 ngày đã diệt, bức rút, bức rã 38 chốt. Tiếp đó, ngày 26.3, quân dân Hoài Nhơn bức địch tháo chạy khỏi hầu hết các xã trong huyện và chi khu quân sự Tam Quan. Ngày 27.3, quân dân Hoài Nhơn bao vây công kích mãnh liệt căn cứ Đệ Đức và chi khu-quận lỵ Bồng Sơn. Ngày 28.3, toàn bộ quân địch tháo chạy vào Phù Mỹ. Quận lỵ Bồng Sơn hoàn toàn giải phóng vào lúc 10 giò ngày 28.3.1975.
Từ 25-27.3.1975, quân dân huyện Phù Mỹ đồng loạt tấn công và nổi dậy tiêu diệt, bức hàng, bức rã 40 chốt điểm địch nằm ở các xã từ đèo Phủ Cũ vào nam đèo Nhông, từ núi Nùng ra nam đèo Nhông, đồng thời tấn công các chốt địch ở nam quận lỵ; từ 28-30.3, chặn đánh, tiêu diệt, làm tan rã phần lớn quân địch từ Hoài Nhơn chạy vào, đánh bật cánh quân địch chạy xuống Tường An hòng ra biển. Quân ta áp sát căn cứ Trà Quang và quận lỵ, buộc quân địch phải tháo chạy vào sáng ngày 31.3.1975 và sa vào lưới phục kích của quân ta tại khu vực Nhà Đá-cầu Phù Ly. Quận lỵ Phù Mỹ hoàn toàn giải phóng vào lúc 8 giờ sáng ngày 31.3.1975.
Tại huyện Phù Cát, từ 25-30.3.1975, quân dân địa phương dồn dập và đồng loạt tấn công, nổi dậy ở hầu hết các xã trong huyện, bức hàng, bức rút nhiều chốt địch, buộc 1 tiểu đoàn bảo an đóng ở Đề Gi phải rút vào Quy Nhơn. Trước sức ép của quân dân ta, bọn địch ở Hòa Hội, quận lỵ và Gò Trạm phải rút vào Gò Quánh cố thủ. Bọn tàn quân địch ở Phù Mỹ chạy vào bị du kích Cát Hanh chặn đánh, phải bỏ cả xe pháo, theo đường sắt tháo thân vào Gò Quánh. Quận lỵ Phù Cát về tay nhân dân lúc 9 giờ ngày 31.3.1975. Tối 31.3, Trung đoàn 19 của Sư đoàn 968 quân Giải phóng khu V đánh chiếm sân bay Gò Quánh.
Tại An Nhơn, từ 26-30.3, quân dân trong huyện diệt, bức rút, bức hàng hàng loạt chốt địch ở các xã Nhơn Thành, Nhơn Hậu, Nhơn Hưng, Nhơn Lộc, Nhơn Thọ; áp sát thị trấn quận lỵ. Sáng 31/3, bộ đội huyện và du kích xã Nhơn Thành, thị trấn Đập Đá chiếm lĩnh, làm chủ đoạn đường Gò Găng-Bả Canh; chặn đánh thiệt hại nặng một đoàn xe quân sự địch từ Gò Quánh chạy vào. Ta hoàn toàn làm chủ quận lỵ An Nhơn lúc 12 giờ ngày 31.3.1975.
Tại Bình Khê, từ 27-30.3, một số đơn vị của Sư đoàn 3 quân Giải phóng và quân dân địa phương đánh bật địch ra khỏi các cứ điểm ở Bình Phú và Bình Nghi, đồng thời thọc xuống đánh chiếm căn cứ An Sơn (xã Phước An, Tuy Phước) của Sư 22 ngụy. Ngày 31.3, Sư đoàn 3 đánh vào căn cứ Lai Nghi (xã Bình Nghi), Trung đoàn 95A quân Giải phóng từ Tây Nguyên tràn xuống đánh tan Trung đoàn 42 ngụy đóng từ lăng Mai Xuân Thưởng đến Phú Phong. Quân ta chiếm quận lỵ Bình Khê lúc 10 giờ ngày 31.3.1975. Đến 18 giờ cùng ngày, ta chiếm căn cứ Lai Nghi và truy kích tàn quân địch.
Tại Vân Canh, từ 25-31.3.1975, bộ đội huyện và du kích tấn công địch trên đường Gò Sau, pháo kích quận lỵ và vây hãm chốt Hòn Lập, bức hàng 1 đại đội địch. Ngày 31.3.1975, bộ đội huyện cùng nhân dân chiếm quận lỵ Vân Canh, truy bắt bọn ác ôn.
Ở Tuy Phước và Quy Nhơn, từ 25-29.3.1975, quân ta liên tục pháo kích hậu cứ của Sư 22 ngụy ở Phước Thành, Phước An; đánh chiếm một số chốt địch ở Phước Thành và Phước Long, hình thành cánh vu hồi phía tây cho thế trận tấn công thị xã Quy Nhơn; siết chặt vòng vây chi khu quân sự Gò Bồi và chi khu quận lỵ Tuy Phước. Trước sức ép của ta, tối 29/3, địch tháo chạy khỏi Gò Bồi, tuyến phòng thủ đông bắc Quy Nhơn bị vỡ. Cùng thời gian, biệt động Quy Nhơn và lực lượng an ninh tỉnh tập kích một số đơn vị cảnh sát, nghĩa quân ở khu 2, khu 5; đánh chiếm các thôn Tây Định, Nhơn Ân, Quảng Vân (nay thuộc xã Nhơn Bình) và trụ vững tại các bàn đạp ven thị xã. Giữa lúc quân dân các huyện Phù Mỹ, Phù Cát, An Nhơn, Bình Khê ào ạt tấn công giải phóng các quận lỵ thì Trung đoàn 93 quân Giải phóng và quân dân Tuy Phước thừa thắng xông lên giáng cho địch những đòn quyết định. Sau khi diệt các chốt vòng ngoài, quân dân Tuy Phước giải phóng quận lỵ lúc 12 giờ 30 ngày 31.3.1975.
Tại Quy Nhơn, trước sức ép của quân dân ta, bọn địch vô cùng hoảng loạn. Ngày 26.3, Thiệu ra lệnh cho ngụy quân, ngụy quyền Bình Định “tùy nghi di tản“. Ngày 28.3, các cơ quan đầu não của ngụy quyền tỉnh chạy vào Nha Trang, một số ra đảo Cù Lao Xanh (nay là xã Nhơn Châu). Sáng 30.3.75, địch phá khu kho quân sự Đèo Son; quân địch ở trận địa pháo Núi Một chuẩn bị tháo chạy.
Chấp hành mệnh lệnh chớp thời cơ giải phóng Quy Nhơn, lúc 11 giờ 30 ngày 31.3.1975, sau khi đánh chiếm vùng Chợ Dinh và cửa mở Núi Một-Cầu Đôi, Trung đoàn 93 chia làm nhiều cánh xốc thẳng vào nội thị, đánh chiếm các vị trí quan trọng. Tiểu đoàn 52 từ Chợ Dinh tiến lên chiếm cầu sông Ngang nhằm chặn đường địch tháo chạy. Tiểu đoàn 50 cùng các đơn vị đặc công và Đại đội 3 Phù Cát theo đường Nguyễn Thái Học đánh quân địch từ sân bay Quy Nhơn đến tiểu khu quân sự. Tiểu đoàn 8 theo đường Gia Long (nay là Trần Hưng Đạo) đánh chiếm khu vực nhà thờ Nhọn, tấn công, tiêu diệt bọn địch từ hậu cứ An Sơn của Sư 22 cộng hòa rút chạy về Quy Nhơn co cụm. Tiểu đoàn trợ chiến 73 nhanh chóng đánh chiếm căn cứ núi Một, dùng pháo thu được của địch bắn hỗ trợ các mũi bộ binh thọc sâu, đồng thời khống chế sân bay, quân cảng và bọn hải quân.
Phối hợp nhịp nhàng với các cánh quân đang tiến vào nội thị, Tiểu đoàn đặc công 405, Tiểu đoàn công binh 19 và Tiểu đoàn 51 đánh tràn qua khu vực Đá Đen, cầu Cây Da, ngả ba Thanh Long, thọc thẳng xuống khu Đèo Son, đài Viễn thông, Gành Ráng.
Khoảng 15 giờ ngày 31.3, đội Biệt động Quy Nhơn xuất kích, bất ngờ đánh chiếm ty Công an (Cảnh sát ngụy), nhà lao trung tâm, giải thoát hơn 1.000 đồng bào, đồng chí bị địch bắt giam giữ tại đây; đến 17 giờ, nã súng vào dinh Tỉnh trưởng (nay là nhà khách UBND tỉnh). Cùng thời gian, đặc công nước 598 chiếm mũi Tấn cùng với tự vệ mật phường Trung Cảng, phối hợp với Tiểu đoàn 8 tiêu diệt, làm tan rã toàn bộ quân địch, đánh chiếm quân cảng và thương cảng Quy Nhơn vào lúc 18 giờ.
Khi quân ta vừa chiếm một số cửa mở, lập tức 1.000 quần chúng khu 3 nổi dậy chiếm trụ sở khu và kho gạo của địch; gần 4.000 nhân dân khu 5 chiếm đồn Cảnh sát Bạch Đằng; gần 2.000 đồng bào khu 1 nổi dậy vận động 2 trung đội dân vệ chiếm giữ một số vị trí gần cảng quân sự và cùng công nhân cảng hỗ trợ quân Giải phóng đánh chiếm quân cảng và thương cảng Quy Nhơn. Tại khu 2, hơn 3.000 quần chúng nổi dậy chiếm trụ sở khu, hỗ trợ đội Biệt động chiếm dinh Tỉnh trưởng, nhà Lao trung tâm và ty Công an ngụy. Hàng nghìn công nhân nhà ga, bến cảng và nhà máy điện tự động chiếm lĩnh các xí nghiệp, chống địch cướp phá tài sản.
20 giờ ngày 31.3.1975, đội Biệt động Quy Nhơn bắt liên lạc và phối hợp với Tiểu đoàn 50, và D30, D20 đặc công đánh chiếm và treo cờ Giải phóng trên tiền sảnh tòa Hành chính ngụy nguyền tỉnh và trung tâm Tiêu khu Bình Định, cơ quan đầu não chính trị, hành chính, quân sự của địch. Đến 24 giờ ngày 31.3.1975, toàn bộ các đồn chốt, căn cứ và cơ quan địch trong nội thị và ngoại vi Quy Nhơn đều bị ta chiếm giữ. Sáng ngày 1.4.1975, cờ đỏ sao vàng và cờ Mặt trận tung bay rợp trời thị xã, hàng nghìn đồng bào ta hồ hỡi đổ ra các đường phố hân hoan chào đón đoàn quân Giải phóng.
Tối 31.3.1975, ta vừa ráo riết truy quét tàn quân địch còn ẩn náu trong thị xã, vừa khẩn trương triển khai lực lượng sẵn sàng tiêu diệt bọn tàn quân địch của Sư 22 cộng hòa, Thiết đoàn 14, 2 tiểu đoàn pháo binh và một số tiểu đoàn bảo an, khoảng 6.000 tên đang liều mạng mở đường máu tràn vào Quy Nhơn hòng thoát ra biển. Đến chiều ngày 1.4 thì tàn quân địch bị quân ta tiêu diệt hoàn toàn. Số phận một binh đoàn quân ngụy tự phong là “ Sư đoàn trấn sơn, bình hải ” bị kết liễu.
8 giờ tối 31.3.1975 là thời điểm giải phóng hoàn toàn thị xã Quy Nhơn (có hơn 200.000 dân) và toàn tỉnh Bình Định (với hơn 900.000 dân).
Suốt 28 ngày đêm (từ 3 đến 31.3.1975) dồn dập tấn công, liên tục nổi dậy, quân dân Bình Định đã đánh sụp toàn bộ ngụy quyền từ xã lên tỉnh; tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân ngụy ở địa phương; chiếm lĩnh hầu như nguyên vẹn các thị trấn, quận lỵ và thị xã, cùng các căn cứ quân sự, kho tàng, công trình công cộng.
Ngay sau khi tỉnh nhà hoàn toàn giải phóng, thực hiện chủ trương của cấp trên, quân dân Bình Định tích cực, khẩn trương huy động nhân, tài, vật lực phục vụ Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn Miền Nam.
Thắng lợi của cuộc tổng tấn công và nổi dậy Xuân 1975 của quân dân Bình Định là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố chủ quan và khách quan, trong đó sự lãnh đạo, chỉ đạo nhạy bén, sáng tạo, biết tranh thủ thời cơ thuận lợi của Ban Chỉ đạo chiến dịch và tư tưởng cách mạng tấn công, tinh thần “Dem sức ta mà tự giải phóng cho ta” của quân dân Bình Định là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định.
ơn 1.000 đồng bào khu 3 nổi dậy chiếm trụ soKhí hậu
Tỉnh Bình Định nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, có dãy Trường Sơn với sườn dốc án ngữ phía tây và biển Đông áp sát miền duyên hải; đất liền có nhiều núi cao, đồi trọc xen lần đồng bằng, thung lũng hẹp là những tác nhân quan trọng dẫn đến sự hình thành các chế độ nhiệt, mưa, gió, nắng, bức xạ, bốc hơi.
Khí hậu biển
Về nhiệt độ không khí, mùa đông, điển hình là tháng 1, nhiệt độ không khí có xu hướng tăng dần từ tây bắc xuống đông nam, từ 22oC lên 25oC; tháng 4, với vùng biển có thể xem là thời kỳ chuyển mùa. Mùa hè, điển hình là tháng 7, hầu hết các vùng biển Bình Định có nhiệt độ không khí nhỏ hơn 27oC.
Về chế độ gió vùng biển, mùa đông chủ yếu là gió đông bắc, tiếp đến là bắc đông bắc; mùa hè chủ yếu là gió nam tây nam.
Khí hậu đất liền
Nhiệt độ không khí, thời kỳ nóng nhất trong năm là các tháng 6, 7 và 8; thời kỳ lạnh nhất trong năm là các tháng 12, 1 và 2; thời kỳ có nhiệt độ thấp nhất là tháng 1; mùa nóng trung bình 253 ngày (11.3-18.11); mùa mát trung bình 112 ngày (19.11-10.3).
Về độ ẩm ướt, có thể chia làm 3 vùng: - Vùng tây bắc huyện An Lão (khu vực mưa nhiều và nhiệt độ thấp) có độ ẩm ướt lớn nhất tỉnh; - Vùng tây nam tỉnh (bao gồm huyện Vân Canh) có độ ẩm ướt vừa; - Vùng có độ ẩm ướt thấp kéo dài từ bờ biển phía đông đến biên giới phía tây, bao gồm Quy Nhơn, Tuy Phước, An Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ, bắc Tây Sơn và nam Vĩnh Thạnh là vùng thung lũng khuất gió, có nhiệt độ cao và ít mưa của tỉnh.
Về độ khô hạn, thời kỳ đầu mùa mưa (tháng 2-4) có độ khô hạn lớn; giữa mùa ít mưa (tháng 5-6), độ khô hạn nhỏ ở hầu hết các nơi trong tỉnh; giai đoạn cuối mùa ít mưa (tháng 7-8), độ khô hạn tăng lên nhưng kém hơn thời kỳ đầu mùa ít mưa.
Về lượng bốc hơi, bắt đầu tháng 1, lượng bốc hơi tăng chậm chạp cho đến tháng 4, sau đó bắt đầu tăng nhanh từ tháng 5 và tăng cao nhất vào tháng 7, 8 (cuối mùa ít mưa); tiếp theo, độ bốc hơi giảm nhanh, thấp nhất vào tháng 12. Khu vực nằm ở phía tây bắc tỉnh là vùng bốc hơi ít; vùng đồng bằng lòng chảo có độ bốc hơi cao. Tổng lượng bốc hơi trong mùa ít mưa của hầu hết các vùng trong tỉnh chiếm tỷ lệ từ 71-75,2% tổng lượng bốc hơi cả năm, trong khi đó tổng lượng mưa trong mùa ít mưa chỉ chiếm 27% tổng lượng mưa trong năm. Vùng tây bắc tỉnh (bắc An Lão, Vĩnh Thạnh) có lượng bốc hơi ít; phía đông tỉnh (Tuy Phước, An Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ) có lượng bốc hơi nhiều.
Về số giờ nắng, vì tỉnh Bình Định nằm ở vùng vĩ độ thấp, độ dài ban ngày quanh năm đều lớn, đồng thời có ít mưa và quang mây từ tháng 1 đến tháng 8 nên các địa phương trong tỉnh đều là những vùng nắng nhiều. Tháng 4 và tháng 7 có số giờ nắng trung bình lớn trong năm, mỗi ngày, trung bình có từ hơn 6,5 giờ đến 7 giờ nắng; còn tháng 10, mỗi ngày có từ 5 - 6,3 giờ nắng.
Lượng bức xã tổng cộng của mặt trời lớn nhất vào tháng 4 - 5, độ cao mặt trời lên cao nhất; lượng bức xạ thấp nhất vào tháng 11-12, độ cao mặt trời xuống thấp nhất.
Chế độ gió, từ tháng 10 năm trước đến tháng 2 năm sau, hướng gió thường là bắc và tiếp đến là gió tây bắc; tháng 3, gió bắc suy yếu dần và gió đông nam bắt đầu lớn mạnh để chuyển sang gió mùa hè; tháng 4 - 6, thường có gió đông nam và gió nam, riêng tháng 6 có sự lớn mạnh của gió tây và tây bắc; tháng 7 - 8, gió tây và tây bắc là gió chính, còn gió đông nam trở thành hướng phụ. Đó là những hướng gió mùa, còn gió địa phương thì có gió tây nam, gió đất và gió biển. Gió tây nam tức là gió Lào thịnh hành nhất là tháng 6 - 7 và kéo sang cả tháng 8 nên nhiệt độ không khí có thể cao trên 37oC và độ ẩm là dưới 50%.
Về bão, các tháng 9, 10, 11 là mùa mưa bão; số lượng bão xuất hiện trong 3 tháng nầy chiếm 84% số lượng bão xuất hiện trong năm. Tuy nhiên tháng 5-6 cũng có khả năng xuất hiện bão sớm và tháng 12 cũng có khả năng xuất hiện bão muộn.
Chế độ mưa ở Bình Định liên quan đến chế độ gió mùa và địa hình khu vực. Mùa đông, gió mùa đông bắc tràn qua biển đông mang nhiều hơi nước bị sườn đông Trường Sơn chặn lại, đặc biệt đầu mùa đông là thời kỳ có những đợt gió xoáy thấp và các cơn bão muộn ở biển đông, nên trên địa bàn tỉnh Bình Định thường xuất hiện mưa lớn vào cuối mùa hè và đầu mùa đông, trong khi đó, ở miền Bắc, Nam Bộ và Tây Nguyên thì bắt đầu mùa hè. Còn mùa hè, gió mùa tây nam từ biển thổi vào bị sườn tây Trường Sơn chặn lại nên tỉnh Bình Định cũng như các tỉnh duyên hải nam Trung Bộ trở nên khô ráo và thỉnh thoảng xuất hiện những luồng gió nóng; đây là mùa ít mưa.
Khởi nghĩa Vĩnh Thạnh
Quán triệt tinh thần Đề cương Cách mạng Miền Nam do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Trung ương cục Miền Nam khởi thảo, giữa năm 1958, Tỉnh ủy Bình Định chủ trương giải phóng và xây dựng vùng cao của huyện An Lão và huyện Vĩnh Thạnh thành căn cứ địa cách mạng của tỉnh.
Tại Vĩnh Thạnh, quân số địch đầu năm 1958 gồm 1 đại đội bảo an và 2 trung đội mới tăng cường, 1 tiểu đội biệt kích, 5 trung đội dân vệ và 30 tên cảnh sát. Địch liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét vào các làng của huyện Vĩnh Thạnh, khủng bố, đàn áp, dồn dân. Quyết liệt nhất là tại xã Vĩnh Quang, nơi người Kinh và người Ba Na cùng sinh sống, là căn cứ cách mạng, đầu mối liên lạc của tỉnh với 30 cơ sở cách mạng.
Biết được âm mưu địch là sau Tết Nguyên đán chúng sẽ tấn công vào căn cứ ta, nhân dân các làng trong huyện khẩn trương tổ chức bố phòng theo 3 tuyến đường cái chính, đường cái phụ và gộp Nước Ló; xây các tuyến chiến đấu nhử địch vào những nơi ta bài binh, bố trận sẵn. Các già làng giàu kinh nghiệm, am hiểu địa thế được mời làm tham mưu bố trí hầm chông, cạm bẩy, làm tên tẩm thuốc độc; phụ nữ, trẻ em cũng tham gia vót chông, mua sắm băng bông, thuốc đỏ để cứu thương.
Trước Tết một tuần, địch ra sức thúc ép dồn dân. Quận trưởng Vĩnh Thạnh ra lệnh chậm nhất đến ngày 11.2.1959, tức ngày mùng 4 Tết âm lịch Kỷ Hợi, 2 xã Vĩnh Hiệp và Vĩnh Hảo phải đưa toàn bộ dân và tài sản xuống khu “ định cư “. Làng nào chống lại thì “Quốc gia làm cỏ”.
Để chống lại âm mưu địch, cán bộ cốt cán của địa phương đã huy động nhân dân 12 làng của 2 xã Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo, nòng cốt là các làng Tơ Lok, Tơ Let, Hà Ri (Vĩnh Hiệp) chặt cây rừng lấp kín các ngả đường, cắm chông, gài mang cung, đặt bẩy đá ở những nơi hiểm yếu; đưa người già yếu, phụ nữ, trẻ em và tài sản vào làng bí mật.
Ngày 6.2.1959 (29 tháng chạp Mậu Tuất), toàn dân Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo nhất tề nổi dậy rào làng chống địch càn quét, dồn dân. Ngày 9.2, địch cho 2 toán bảo an lên thám sát làng Tơ Lok và Hà Ri, vấp phải trận địa chông, thò, bẩy đá dày đặc. Đầu tháng 3.1959, tên Quận trưởng ra lệnh cho 1 trung đội bảo an mở 2 trận càn tấn công các làng Vĩnh Hiệp, Vĩnh An, nhưng vẫn không dồn được dân. Du kích các làng Tơ Lok và Tơ Let dũng cảm đánh trả quyết liệt, tiêu diệt và làm bị thương nhiều tên địch, buộc chúng phải rút lui. Địch ngoan cố tăng viện, mở cuộc hành quân quy mô lớn vào ngày 17.3. Suốt 6 giờ liền, từ 10 giờ sáng đến 16 giờ chiều, địch liên tiếp mở nhiều cuộc tấn công, nhưng vẫn không sao vào được trong làng. Chúng lồng lộn huy động máy bay đến ném bom triệt phá làng mạc, nhưng nhân dân vẫn kiên cường bám làng, đánh địch, buộc chúng phải rút lui.
Để hỗ trợ cho cuộc nổi dậy của đồng bào Vĩnh Hiệp, Vĩnh Hảo chống địch dồn dân, nhân dân các làng xã khác đồng loạt tổ chức đợt tấn công chính trị trong toàn huyện, kịch liệt tố cáo tội ác địch, đòi chúng phải chấm dứt khủng bố đồng bào 2 xã Vĩnh Hiệp và Vĩnh Hảo, đòi để nhân dân được trở về làng cũ làm ăn.
Phát huy thắng lợi bước đầu, nhân dân 14 làng của các xã Vĩnh Hảo, Vĩnh Kim và Vĩnh Châu (8 làng của Vĩnh Hảo nổi dậy lần thứ 2 và 6 làng vùng cao đông dân của Vĩnh Châu, Vĩnh Kim), trong đó có làng Kon Klok nổi tiếng sừng sỏ chống dịch, đồng loạt vùng lên chống địch càn quét, dồn dân. Các xã Vĩnh Hòa, Vĩnh Trường, Vĩnh Nghĩa cũng triển khai rào làng. Đêm 11.4.1959, được một tên phản bội dẫn đường, 1 trung đội bảo an luồn rừng tập kích làng Kon Klok, giết tại chỗ 2 đồng bào ta và bắt đi 7 người khác, có cả Bá Lớ, vốn là “Vùng trưởng” của địch và 4 cốt cán cách mạng. Cả làng bị địch đốt sạch. Như đổ thêm dầu vào lửa, đầu tháng 6/1959, trừ xã Vĩnh Bình, tất cả 60 làng thuộc 9 xã với hơn 5.000 dân của huyện Vĩnh Thạnh đều đứng lên chống địch.
Qua 4 tháng, từ 6.2.1959 đến đầu tháng 6.1959, nhân dân Vĩnh Thạnh từ nổi dậy rào làng, chống địch dồn dân, phát triển thành phong trào chiến tranh du kích cục bộ, kết hợp với đấu tranh chính trị, giành và giữ quyền làm chủ núi rừng, làng bản. Đây là cuộc Khởi nghĩa từng phần đầu tiên ở tỉnh Bình Định và khu V bằng bạo lực cách mạng tại chỗ theo phương châm đấu tranh chính trị, vũ trang song song.
Đến cuối năm 1960, ta giải phóng hầu hết huyện Vĩnh Thạnh. Huyện tổ chức Đại hội đại biểu nhân dân toàn huyện tại Dak Klak (Dak Klok), bầu Ủy ban Nhân dân Tự quản huyện. Đâylà huyện đầu tiên của tỉnh Bình Định lập chính quyền cách mạng trong kháng chiến chống Mỹ, trở thành căn cứ kháng chiến vững chắc của quân dân Bình Định.