CẨM NANG BÌNH ĐỊNH
L
Làng nghề
Đến năm 2010, tỉnh Bình Định có 54 làng nghề, trong đó có 48 làng nghề truyền thống và 6 làng nghề mới ra đời; có 18 làng nghề đã được UBND tỉnh quy hoạch đầu tư phát triển và công nhận Làng nghề truyền thống.
Làng Bánh tráng Kiên Long
Làng (thôn) Kiên Long thuộc xã Bình Thành, huyện Tây Sơn có nghề tráng bánh từ lâu đời, theo kiểu thủ công truyền thống. Tuy là nghề phụ làm vào những lúc nông nhàn, nhưng lại cho thu nhập cao hơn nghề làm ruộng, nên nghề nầy được duy trì và có xu thế ngày càng phát triển.
Làng Bánh tráng Trường Cửu
Thôn Trường Cửu xã Nhơn Lộc, thị xã An Nhơn có khoảng 250 hộ gia đình thì đã có hơn 200 hộ chuyên làm nghề bánh tráng gạo trộn mè (vừng) nổi tiếng thơm ngon, beo béo. Bánh tráng Trường Cửu chẳng những được thị trường trong tỉnh, trong nước ưa chuộng mà còn được xuất khẩu ra nước ngoài.
Làng Bánh tráng nước dừa Hoài Nhơn.
Huyện Hoài Nhơn có nhiều xã chuyên làm bánh tráng nước dừa được đông đảo người tiêu dùng ưa thích. Tuy nhiên do chưa quảng bá rộng rãi, nhất là chưa một lần tham gia Hội chợ-Triển lãm hàng lương thực, thực phẩm toàn quốc nên nhiều vùng trong nước chưa biết đến bánh tráng nước dừa, một đặc sản của huyện Hoài Nhơn.
Làng Bí đao Mỹ Thọ
Nhân dân xã Mỹ Thọ, huyện Phù Mỹ, đặc biệt là thôn Chánh Trạch nổi tiếng về nghề trồng bí đao năng suất cao, có quả nặng 100 kg..Thời chúa Nguyễn, Chánh Trạch có tên là ấp Chánh Lý. Đây là một trong những ấp ra đời đầu tiên tại huyện Phù Ly (sau chia thành 2 huyện Phù Mỹ và Phù Cát).
Trên địa bàn xã Mỹ Thọ có hàng trăm hộ chuyên trồng bí đao năng suất cao, thường mỗi quả nặng 40-50 kg, ăn rất thơm ngon. Có hộ trồng 30 dây (cây) thu hoạch đến trên 120 quả, mỗi quả nặng từ 50 kg đến 100 kg. Để giàn bí không bị sập, cứ mỗi dây bí đao phải dùng 10 cây tre già kết nối nhau để chống đỡ. Có hộ mỗi năm thu hoạch hơn 350 quả bí đao, tổng trọng lượng hơn 13 tấn, tính trung bình mỗi quả bí đao nặng trên 90 kg, trong đó có hàng chục quả nặng trên 100 kg, nhân dân gọi là “siêu bí đao“.
Chưa ai biết nghề trồng bí đao năng suất cao của nhân dân Mỹ Thọ có từ bao giờ. Nhưng nếu đem giống bí đao xã nầy trồng nơi khác thì năng suất không cao, quả bí chỉ nặng vài chục kg là tối đa. Có lẽ do thổ nhưỡng Mỹ Thọ thich nghi với cây bí đao. Nghề trồng bí đao ở Mỹ Thọ thường bắt đầu từ tháng 11, khoảng từ tháng 4 đến tháng 6 năm sau là thu hoạch.
Bí đao Mỹ Thọ được thương lái các nơi đến thu mua chở đi tiêu thụ trong Nam, ngoài Bắc. Nếu bí đao Mỹ Thọ được đăng ký xác lập kỷ lục Việt Nam để khẳng định thương hiệu siêu bí đao, thì thị trường tiêu thụ sẽ ngày càng mở rộng, thậm chí ra cả nước ngoài. Như vậy sẽ kích thích mạnh mẽ sự phát triển nghề trồng bí đao năng suất cao, chất lượng tốt của nhân dân xã Mỹ Thọ.
Làng Bún Song Thằn An Thái
An Thái (xã Nhơn Phúc, thị xã An Nhơn) nằm ven thành Cha, nơi xưa kia công chúa cư ngụ, là làng quê không chỉ nổi tiếng về võ cổ truyền mà cả về món ăn độc đáo là Bún Song Thằn.
Trong dân gian lưu truyền câu chuyện về nàng công chúa làm ra món ăn kỳ lạ bằng tinh bột đậu xanh. Gói bún được thắt bằng hai dây lạt mềm, một dây lấy từ lưỡi mèo cây dừa, màu vàng tơ lụa, một dây lấy tư lưỡi mèo cây cau, màu trắng mây nõn. Đó là Bún Song Thằn.
Món ăn cao cấp nầy phụ thuộc vào nguyên liệu là đậu xanh và nguồn nước. Bún Song Thằn có thể làm từ đậu đen, đậu trắng, đậu nành, nhưng tốt nhất vẫn là đậu xanh. Chọn đậu loại một, phơi kỹ trong nắng già, thường thì phơi năm ba nắng. Đem đậu cà bể đôi rồi ngâm nước. Xong, đãi vỏ, xay nhuyển như xay bột bánh tráng. Đổ nước bột trên vải sưa căng thỏng, hứng thau bên dưới để lọc. Cho nước từng lúc, chà đảo cho tinh bột chảy qua màng vải, xuống hết vào thau, loại hết xác và tạp chất. Người làm việc nầy phải khỏe, thường là trai tráng. Sau vài giờ, tinh bột lắng lại, nước trong ra. Nếu chọn đậu tốt thì tỷ lệ bột nhất ở đáy thau sẽ cao. Tách bột nhất, bột nhì để riêng, đổ nước vào, khuấy đều, để lắng lại, chăc nước ra, sơ thì vài ba lần, kỹ thì bốn năm lần. Phần đãi đỗ, lọc nước làm rất nhọc công. Ngày trước, người ta phải chọn doi cát giữa dòng sông, nơi con nước chảy mạnh, cất chòi để ngâm và đãi đỗ.
Để có được loại tinh bột thật trắng đúng chuẩn, tay nghề phải thật hoàn hảo. Khi múc bột ra, phải múc miếng trắng riêng, miếng hẩm riêng. Từ sáng đến chiều gò bột tươi, ghép thành miếng trong khăn, quạt khô, ngày mai xắt phơi, thường làm năm ba bữa thì được vài ba kg bột khô.
Muốn làm được 5 kg bún khô phải có 6 kg tinh bột; muốn có 6 kg tinh bột phải có 30 kg đậu xanh. Đem 2,5% số lượng tinh bột sống hòa nước đang sôi khuấy đều cho chín. Xong, đem trộn với 97,5% tinh bột sống còn lại, nhồi cho nhuyễn. Cho từng phần bột nhuyễn vào muổng đồng có 6-7 lỗ, đẩy bột chảy thành dòng song song xuống chảo gang nước sôi bốc khói nghi ngút. Bún rê chìm xuống nước sôi, đến khi chín thì nổi lên, múc bún bỏ ra thau. Người chụm lửa, người rê bún, người múc bún, người trải lên vĩ, vát ra ngoài nắng phơi. Do khâu chế biến rất công phu nên Bún Song Thằn gía rất đắc, chỉ có những nhà giàu có hay đám tiệc mới mua dùng.
Làng Bún tươi Ngãi Chánh
Thôn Ngãi Chánh, xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, có nghề truyền thống là sản xuất bún tươi bằng bột gạo, được thị trường ưa chuộng. Đầu năm 2010, Ngãi Chánh được Ủy ban Nân dân tỉnh công nhận là Làng nghề truyền thống.
Làng Chế tác cồng chiêng Mỹ Thạnh
Từ cuối thế kỷ XIX, làng Mỹ Thạnh, huyện Tuy Viễn, nay thuộc xã Nhơn Phúc, thị xã An Nhơn, đã nổi tiếng về nghề chế tác cồng chiêng. Ông tổ nghề làm cồng chiêng ở Mỹ Thạnh là ông Nguyễn Văn Bảy, còn được gọi là Hương bổn Phượng. Thời Đồng Khánh, ông nội và cha ông Phượng (vốn quê tỉnh Bắc Ninh) cùng nhiều thợ đúc giỏi vào kinh thành Huế chế tác các loại cồng chiêng, thanh la, chuông… cho nhà vua. Khi tay nghề đã cao, cha ông Phượng không về lại quê nhà mà kết nghĩa với hai người bạn đưa nhau vào Bình Định sinh sống. Ông Phượng trú tại Mỹ Thạnh chuyên làm chiêng, còn hai người bạn thì một người về Phương Danh làm nghề đúc đồng, người kia về Thuận Truyền làm nghề thợ bạc.
Lò chiêng ông Phượng là lò chính ở Mỹ Thạnh, hoạt động từ đầu thế kỷ XX, thời Thành Thái. Trong làng có khoảng 20 lò sãn xuất cồng chiêng, trung bình mỗi lò có khoảng 5-7 thợ. Chiêng có núm, mỗi bộ 9 chiếc, còn phèng la vòng tròn, 15 chiếc. Bộ chiêng lớn nhất, mỗi chiếc có đường kính 2,2 thước. Tiếp đến là các loại chiêng 1,9; 1,8; 1,7; 1,6; 1,5; 1,4 thước. Nếu bộ chiêng 16 chiếc thì phèng la 23 cái; bộ chiêng 9 chiếc thì phèng la 15 cái; 8 chiếc thì 13 phèng la; 7 chiếc thì 11 phèng la; 5 chiếc thì 7 phèng la; 4 chiếc thì 5 phèng la.
Chiêng một số nơi rớt xuống thì câm luôn, vì đồng pha nhiều kẽm, còn chiêng Mỹ Thạnh làm toàn bằng đồng lá, đàn ra bằng tay nên có rớt xuống cũng không sao.
Nghề làm chiêng rất tỉ mỉ, kỳ công; dùng búa gò đi đường hông, búa vỗ đánh cho bằng, búa chữa đi cà chấm cà chấm; thợ nhất dùng búa lọng lõm, búa vuốt sườn để lận cánh. Mỗi năm làng An Thái cho xuất xưởng hơn 600 bộ cồng chiêng, có bộ mỗi chiếc đường kính rộng 2,4 thước ta, hai người khiêng mới nổi. Cồng chiêng sản xuất ra đều được đồng bào các dân tộc ít người trong tỉnh và các tỉnh Tây nguyên tiêu thụ.
Những năm cuối thế kỷ XX, do nguyên liệu đồng khan hiếm nên nghề chế tác cồng chiêng Mỹ Thạnh có nguy cơ tàn lụi.
Làng Chiếu cói Cát Chánh
Xã Cát Chánh, huyện Phủ Cát. trồng nhiều cói nên nghề dệt chiếu cói ở đây nổi tiếng từ thuở các chúa Nguyễn mở đất vào Bình Định. Nhưng có một thời gian dài, chiếu cói Cát Chánh không phát triển được vì thị trường tiêu thụ bị thu hẹp, do sự lấn át của các loại chiếu ni lông, chiếu gỗ của Trung Quốc tràn vào nước ta. Nay nghề chiếu cói Cát Chánh đang dần được khôi phục với chất lượng cao và nhiều mẫu mã hấp dẫn hơn trước.
Làng Chiếu cói Công Thạnh.
Thôn (làng) Công Thạnh thuộc xã Tam Quan Bắc, huyện Hoài Nhơn là nơi có nghề trồng cói, lác phát triển. Đó là nguồn nguyên liệu tại chỗ thõa mãn nhu cầu dệt chiếu cói của địa phương nầy Cả làng có hơn 300 hộ với khoảng 1.200 nhân khẩu, trong đó có 350 lao động chuyên nghề dệt chiếu với trên 370 khung dệt. Đó là chưa kể lực lượng người già, trẻ em tham gia làm những công việc nhẹ.
Sản phẩm chiếu Công Thạnh đẹp, bền nên được thị trường trong tỉnh và các tỉnh khu V cũ và Tây Nguyên tiêu thụ mạnh.
Cây cói Công Thạnh vừa là nguyên liệu đáp ứng nhu cầu nghề dệt ở địa phương, vừa là nguồn hàng hóa bán ra các tỉnh có nghề dệt chiếu như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hòa.
Làng Chiếu cói Phước Thắng
Xã Phước Thắng (Tuy Phước) có 3 thôn An Lợi, Lạc Điền, Đông Điền nổi tiếng về nghề dệt chiếu cói truyền thống. Không như nhiều địa phương khác, sau khi đệt chiếu trắng mới in hình ảnh màu, hoa văn chỉ thấy ở một mặt, còn chiếu hoa Phước Thắng thì dệt bằng cói đã được nhuộm màu sẵn, nên hoa văn nổi cả hai mặt; hoa văn cũng khá đa dạng.
Chiếu Phước Thắng được tạo nên từ những công đoạn khá công phu. Cói thu hoạch xong, đem chẻ ngay, sau đớ phơi khô, loại bỏ phụ phẩm và nhuộm màu. Phẩm nhuộm là loại phẩm tốt, được nấu sôi trước khi đem nhuộm để khỏi phai màu. Cói nhuộm xong thì phơi ngay, phơi vừa đủ nắng để cói không giòn và không ẩm mốc. Trong quá trình dệt, người thợ phải có óc thẩm mỹ, biết kết hợp màu sắc sao cho hài hòa, thanh nhã, phù hợp với hoa văn, họa tiết.
Sau một thời gian thăng trầm, những năm gần đây, thị trường chiếu cói khôi phục, chiếu Phước Thắng luôn trong tình trạng “cháy hàng”. Chiếu dệt đến đâu tiêu thụ hết đến đó; không chỉ tiêu thụ trong tỉnh mà thông qua các đầu nậu ở các chợ Gò Bồi (Phước Hòa, Tuy Phước), chiếu Phước Thắng có mặt ở nhiều tỉnh Miền Trung và Tây Nguyên.
Làng Cốm Cát Tường
Xã Cát Tương (Phù Cát) có hai thôn Chánh Liêm và Xuân An có nghề làm cốm truyền thống. Cốm Cát Tường đã từng tham gia Hội chợ-Triễn lãm các sản phẩm làng nghề truyền thống toàn quốc tại Quảng Nam.
Cốm Cát Tường được khách hàng các tỉnh Miền Trung, Tây Nguyên tiêu thụ mạnh và đã được xuất khẩu sang hai nước bạn là Lào và Campuchia.
Làng dầu rái ở Định Bình
Tỉnh Bịnh định có nhiều loại cây lấy dầu giá trị kinh tế cao. Cây dầu rái có nhiều ở Hoài Nhơn, Tây Sơn, Vân Canh (nhiều nhất là ở Hoài Nhơn) với các làng dầu rái như Định Bình (xã Hoài Tân, Hoài Nhơn), Canh Giao, Canh Hiệp (Vân Canh), Phú Hòa (xã Tây Xuân, Tây Sơn), trong đó Định Bình có nghề làm dầu ráí phát đạt nhất.
Cây dầu rái vừa cung cấp gỗ xây dựng, vừa cung cấp nhựa có thể thay thế colophan trong công nghệ chế biến sơn, vẹc ni, mực in. Sản phẩm nhựa cây dầu rái có 2 loại chính: dầu tía (nước lỏng), dầu trắng (nước lỏng đã đặc). Lớp ván dầu nổi lên trên bề mặt, gọi là mở dầu được coi là thượng hạng, thường dùng để đánh bóng nón lá; lớp dầu khô cứng lại gọi là chai là thứ phẩm.
Cây dầu rái trên 10 năm tuổi thì được khai thác nhựa. Người khai thác dùng một loại rìu chuyên dụng lưới sắc, cán dài 6-7 tấc, vạt vào thân cây dầu rái để mở miệng gọi là mặt vát; cây nhỏ mở 1 mặt vát, cây lớn 2-3 người ôm thì mở 3-4 mặt vát, nhưng không được đối xứng nhau để khi hơ lửa dầu chảy không trùng nhau. Người mở mặt vát phải có kinh nghiệm, phải mở sao cho mặt vát nhẵn đều, rãnh vát xuôi xuống cối; mở không khéo thì dầu chảy ra ít, lại ảnh hưởng đến tuổi thọ của cây. Cối là chỗ khoét lõm trên mặt đất, cạnh gốc cây. Khi nhựa dầu đầu tiên chảy xuống, để cho dầu đông cứng lại thành bề mặt cối. Dung tích cối bằng khoảng 3 vá múc canh.
Mở mặt vát xong phải đốt lá nón hơ 5 lửa, mỗi lửa cách nhau 7 ngày. Sau lần đốt thứ 7, lứa dầu đầu tiên được múc gọi là dầu vạt, 7 ngày sau đốt lần nữa thì lấy được lứa dầu khác, gọi là dầu hơ. Sau 7 lần đốt, mặt dầu đen lại, phải dùng rìu vạt lại mặt vát. Lứa dầu đầu tiên của lần vạt nầy gọi là dầu vạt hai. Cứ như thế mà tiếp tục khai thác.
Làng Dệt Nam Phương Danh
Ở xóm Cửi, Nam Phương Danh có ty thờ ông Tổ nghề dệt, hằng năm cúng Tổ vào ngày 17 tháng giêng âm lịch. Họ Nguyễn Phương Danh còn giữ gia phả đệ nhất thế tổ Nguyễn Văn Tài vào Đàng Trong theo chúa Nguyễn, sinh hai con giỏi nghề tằm tang canh cửi. Con trưởng là Nguyễn Văn Lược vào Bình Định lập nghiệp, con thứ ở lại Quảng Nam. Cháu đích tôn của đệ nhất thế tổ là Nguyễn Văn Huỳnh đã truyền nghề dệt cho làng Phương Danh.
Làng dệt Phương Danh đã từng một thời nức tiếng với hàng ngàn khung cửi tạo ra các mặt hàng lụa là sang trọng như xuyến, đũi, nhiễu; từng cung cấp vải mặc cho nhân dân và bộ đội ta trong kháng chiến chống Pháp, nổi tiếng là vải si ta màu xám dễ thương; từng nổi tiếng về hàng dệt xuất khẩu sang Liên Xô vào những năm cuối thập niên 70 đầu thập niên 80 của thế kỷ XX.
Làng dệt Nam Phương Danh xưa kia nổi tiếng về những nghệ nhân chuyên dệt một loại hàng như ông Bầu Địch (Nguyễn Chúc) dệt xuyến, ông Mười Chuỗi (Nguyễn Hộ) dệt đũi, ông Bảy Ât (Phan Minh Ất) dệt chiếu, ông Cầm (Võ Sáu) nhuộm nhiễu...
Ngày nay, để thích nghi với nền kinh tế thị trường, nhiều hộ gia đình đã xoay sang dệt thổ cẩm hay sản xuất gạc y tế.
Làng Dệt thổ cẩm Bok Tới, Dak Mang
Người Ba Na ở hai xã Bok Tới và Dak Mang, huyện Hoài Ân có nghề dệt thổ cẩm truyền thống khá nổi tiếng.
Khung dệt vải của người Ba Na khá đơn giản: hai ống nứa dài khoảng 0,6m-1m, có chức năng căng sợi của thảm vải; một thanh gỗ có bản rộng 10cm-20cm, một đầu vát nhọn, có nhiệm vụ luồn sợi đan ngang, hai cạnh được gọt tròn nhẵn thành mép mỏng để dập cho sợi ngang khít chặt vào sợi dọc; một miếng gỗ đẽo cong ôm sau lưng người dệt và nối chặt với các ống căng sợi dọc.
Người Ba Na dệt thổ cẩm theo 3 công đoạn: tìm sợi, nhuộm màu và dệt. Xưa kia họ lấy sợi từ các vỏ cây trong rừng như cây kđôn, kpông, cây sui.. đem ngâm nước cho tơi, xốp, đập dập rồi tước thành sợi nhỏ, dùng xa quay để xe chỉ. Về sau, họ trồng cây bông, cây đay để lấy sợi. Người Ba Na dùng nhựa lá, rễ, vỏ cây rừng để nhuộm màu. Màu đen là màu nền của mỗi tấm vải, mỗi bộ trang phục. Các màu thường dùng khác là xanh, đỏ, vàng.
Công đoạn dệt được tiến hành công phu và tỷ mỷ, đòi hỏi người dệt phải có óc sáng tạo, tinh tế trong việc tạo ra các hoa văn, phân bố màu sắc.
Nghề dệt thổ cẩm, một nghề vừa dệt, vừa thêu của người Ba Na là nghề “mẹ truyền, con gái nối”. Hiện trên địa bàn hai xã Bok Tới, Dak Mang chỉ còn gần 100 hộ gia đình có người biết dệt và còn công cụ dệt thổ cẩm.
Làng Đóng thuyền Xóm Trường
Xóm Trường, làng Chánh Thành (nay thuộc phường Trần Hưng Đạo, thành phố Quy Nhơn) xưa kia nổi tiếng về nghể đóng thuyền buồm, kể cả thuyền chiến thời Tây Sơn.
Làng Đúc đồng Bằng Châu
Làng Đúc đồng Bàng Châu (phường Đập Đá, thị xã An Nhơn) có từ thời Tây Sơn. Thời đó, làng Đúc tập họp lại thành từng vùng, cụm, đúc các sản phẩm như mâm, nồi, chảo, đồ thờ… kỹ thuật còn thô sơ, quy trình chế tạo khuôn đúc tốn nhiều công sức.
Tương truyền về sau, cha bà Hoàng Sanh (vợ vua Thành Thái) vốn là một nghệ nhân đúc đồng tài hoa nổi tiếng được vua Thành Thái triệu về cung đình Huế làm nhiệm vụ đúc tiền. Bà Sanh nhan sắc tuyệt vời theo cha ra Huế, được nhà vua tuyển làm phi. Cha bà Hoàng Sanh là người đã truyền dạy và nâng cao kỹ thuật đúc đồng ở Bàng Châu.
Xưa kia, làng Đúc đồng Bàng Châu có nhiều nghệ nhân lão luyện như ông Huỳnh Thông, ông Trùm Sáu, ông Cửu Hào. Sản phẩm làm ra chủ yếu là mâm, nồi, chảo và các loại đồ thờ như đèn, lư hương, bộ tam, bộ ngũ... Đồ đồng Bàng Châu làm bằng thủ công, nhưng với kinh nghiệm tay nghề truyền thống, nên rất được nhân dân trong tỉnh và các tỉnh trong vùng ưa chuộng. Nhiều sản phẩm do thợ đúc đồng Bàng Châu làm ra hiện còn lưu giữ tại Đại nội Huế, đáng chú ý nhất là “Cửu đảnh” (9 cái đinh) được đúc vào thế kỷ XIX.
Thời kháng chiến, dù mưa bom bão đạn, phải hành nghề vào ban đêm dưới hầm, nghề đúc Bàng Châu vẫn không bị mai một. Thợ Bàng Châu đã tham gia đúc vũ khí chống Pháp, như vỏ lựu đạn hình quả mãng cầu đúc tại xưởng quân khí Hoài Ân. Năm 1957, thợ Bàng Châu tham gia nấu đồng để dúc tượng Phật cao 2 mét, nặng 780 kg đặt tại chùa Long Khánh (Quy Nhơn). Năm 1972, các nghệ nhân Bàng Châu đã dúc thành công dại hồng chung (chuông lớn) cao 1,2 mét, rộng 0,8 mét, nặng trên 200 kg, hiện đặt tại chùa Long Hoa (Phù Cát).
Sau giải phóng, năm 1978, Hợp tác xã Đúc đồng Bàng Châu được thành lập. Thợ đúc đồng Bàng Châu tích cực đầu tư trang bị thiết bị, máy móc cơ khí, cải tiến quy trình công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhiều cơ sở đúc đồng được trang bị như một xưởng cơ khí, mỗi cơ sở đều có máy tiện, máy khoan, máy hàn…với khoảng 10 công nhân làm việc thường xuyên. Hợp tác xã Đúc đồng Bàng Châu đã sản xuất ra nhiều sản phẩm phục vụ sản xuất công nghiệp như các chi tiết máy thủy lực, ống láp đồng, bạt đồng, chân vịt… cung cấp cho khách hàng nhiều tỉnh trong nước, như Bình Thuận, Vũng Tàu, Quảng Ninh; các loại vòi tưới, cồng chiêng cung cấp cho Tây Nguyên; khuôn ép ngói thủ công, vòi nước bằng đồng. Đặc biệt, nghệ nhân đúc đồng Bàng Châu đã sản xuất được những thiết bị phụ tùng dùng trong máy X quang đòi hỏi kỹ thuật luyện kim cao.
Năm 1982, nghệ nhân Bàng Châu đã góp công, của đúc tượng Bác Hồ toàn thân cao 2 mét, nặng 780 kg đặt tại Trung tâm Văn hóa-Thể thao huyện An Nhơn.
Thương hiệu Hợp tác xã Đúc đồng Bàng Châu nổi tiếng trong tỉnh và nhiều địa phương trong nước, nên sản xuất, kinh doanh của Hợp tác xã rất phồn thịnh.
Cuối thập niên 90 của thế kỷ XX, Hợp tác xã Bàng Châu giải thể. Từ đây, thợ đúc đồng Bàng Châu gặp vô vàn khó khăn trong sản xuất, đời sống. Nhưng những nghệ nhân tâm huyết với nghề truyền thống do tổ tiên dày công tạo dựng đã ra sức khôi phục làng nghề. Năm 2007, thợ đúc đồng Bàng Châu đã đúc thành công theo đơn đặt hàng một tượng Phật Thích Ca tọa thiền cao 1,45 mét, nặng 1,1 tấn.
Ngày 1.5.2008, Sở Công Thương Bình Định ký quyết định cho phép thành lập Hiệp hội Làng nghề Đúc đồng Bàng Châu, tạo thuận lợi cho nghề đúc đồng Bàng Châu ngày càng phát triển. Nhiều sản phẩm đúc đồng mới ra đời đáp ứng thị trường trong tỉnh, trong nước như máy bơm nước, cốt máy, cánh quạt, chân vịt tàu thủy... Ngoài ra, để thích ứng với thị trường, làng Bàng Châu còn sản xuất các sản phẩm đồ nhôm.
Làng Gốm Chợ Gồm
Gốm Chợ Gồm ở thôn Vĩnh Trường, xã Cát Hanh, huyện Phù Cát nổi tiếng từ thời các vua đầu triều Nguyễn (đầu thề kỷ XIX). Gốm sản xuất ở đây bằng bàn xoay, dáng thanh, đẹp, bền với nhiều sản phẩm như vại, ấm, siêu sắc thuốc, chén, bát, bình hoa, chậu kiển...
Đến cuối thế kỷ XX, tại vùng Chợ Gồm còn 3 lò gốm của ông Nguyễn Hiền, ông Nguyễn Phương và bà Võ Thị Liên.
Làng Gốm Vân Sơn
Tại xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, có các làng làm nghề gốm là Vân Sơn, Ngãi Chánh, Nhạn Tháp đều có thờ ông Tổ là vua Thuấn. Theo truyền thuyết vua Thuấn đi chơi núi, sai quân nặn đồ chơi từ một thứ đất lạ, sau nầy là phát tích của nghề sành sứ. Lễ cúng Tổ được tiến hành xuân, thu nhị kỳ, xuân thì mùng sáu tháng giêng, thu thì mùng sáu tháng bảy âm lịch.
Làng gốm Vân Sơn vốn có từ lâu đời và lưu truyền mãi cho đến nay. Sản phẩm gốm Vân Sơn chủ yếu là bộng giếng, chum, chậu, ang, vò, thạp, chậu kiển, ấm trà, nồi niêu, bếp lò, các loại bùng binh và đồ chơi trẻ con... được bày bán ở các chợ trong tỉnh và một số tỉnh bạn như Phú Yên, Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum. Mặt hàng bán chạy nhất là chậu kiển, bếp lò nấu than.
Đầu năm 2010, làng gốm Vân Sơn được Ủy ban Nhân dân tỉnh công nhận là Làng nghề truyền thống. Hiện nay, ở Vân Sơn tại xóm Mới và xóm Ga có khoảng 72 hộ, 150 lao động, Nhạn Tháp chỉ còn khoảng 10 hộ làm nghề gốm.
Làng Khảm xà cừ Cẩm Văn
Từ xa xưa, làng Cẩm Văn, phường Nhơn Hưng, thị xã An Nhơn đã có nghề truyền thống Khảm xà cừ nổi tiếng trong và ngoài tỉnh. Hiện tại, ở Cẩm Văn có khoảng 10 cơ sở khảm xà cừ với hàng trăm lao động.
Khảm xà cừ là một nghề tinh xảo. Muốn hoàn thành một sản phẩm khảm xà cừ, phải trải qua nhiều công đoạn. Đầu tiên là chọn những vỏ trai, ốc xà cừ có màu sắc đẹp, phù hợp với đề tài sản phẩm; tùy theo giá trị của sản phẩm mà chọn trai ốc hoặc xà cừ. Tiếp đến là sáng tác bản vẽ trên sản phẩm cần khảm với những đề tài mang tính truyền thống, các sự tích văn học dân gian, cổ điển. Tiếp đến là xử lý nguyên liệu: mài, cưa, cắt các mảnh xà cừ phù hợp với tác phẩm. Sau đó tiến hành hạ mặt tranh khảm: đục mãng nền phù hợp độ dày của mảnh xà cừ và khảm xà cừ vào cho khít, phẳng. Sau cùng, dùng dao sắc, nhọn, chạm trổ, thêm những chi tiết bổ sung cần thiết và đánh bóng tác phẩm. Làm ra một sản phẩm khảm xà cừ phải tốn rất nhiều thời gian.
Một sản phẩm khảm xà cừ có giá trị cao đòi hỏi phải có đôi bàn tay tinh tế của người thợ giỏi, đồng thời phải có nguyên liệu, chất liệu quý, hiếm. Sự tinh xảo của nghề khảm xà cừ là nghệ thuật ghép nối các mảnh vỏ trai, xà cừ từ màu hổ phách đến màu ngũ sắc lóng lánh; màu sắc thay đổi theo mỗi góc nhìn khác nhau. Một sản phẩm khảm xà cừ đẹp chủ yếu là do tài chọn màu, sắp xếp màu sắc một cách hài hoà, cộng với kỹ xảo của nghệ nhân. Một tác phẩm khảm xà cừ chẳng những phải có giá trị nghệ thuật, mỹ thuật mà còn phải chứa đựng cái hồn của nghệ nhân tài hoa, tâm huyết.
Ngày xưa, các sản phẩm khảm xà cừ chỉ được thể hiện ở các bộ tam sơn, khay trà, cơi trầu, bình phong, câu đối, câu liễn, các bức hoành, tủ thờ, trường kỷ... thường được sử dụng trong Triều đình, trong quan lại và các nhà giàu có. Nay sản phẩm khảm xà cừ đa dạng, phong phú hơn nhiều và được mọi tầng lớp nhân dân mua dùng.
Làng Hàu Đông Phường
Xóm Đông Phường, tục gọi là xóm Câu Thẻo thuộc đội 7, thôn Nhơn Ân, xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước có nghề truyền thống đánh bắt cá trên đầm Thị Nại, những năm gần đây lại có thêm nghề mới là lặn bắt hàu chuyên nghiệp.
Khi biển “đói”, đến mùa nước xuống, nhân dân xóm Đông Phường, chủ yếu là đàn ông và phụ nữ khỏe mạnh, bơi lặn giỏi, rủ nhau chèo thuyền ra đầm Thị Nại lặn mò bắt hàu. Cả xóm có khoảng 270 hộ thì đã có gần 200 hộ chuyên làm nghề lặn hàu. Phần đông là đàn ông và chỉ vài mươi phụ nữ khỏe mạnh mới đủ sức lặn hàu ở độ sâu cách mặt nước 5-6 sải tay. Đây là một nghề lao động rất vất vả, ăn theo con nước lên xuống, nên thu nhập bấp bênh.
Với giá cả thị trường hiện nay, một ki lô gam hàu thịt, tùy loại to nhỏ giá từ 15.000-35.000 đồng, bán cho các nhà hàng, khách sạn; còn 1 kg hàu vỏ bán cho các lò nung vôi với gía 8.000-10.000 đồng. Thuyền nào lặn hàu giỏi, mỗi ngày có thể kiếm được vài, ba trăm nghìn đồng.
Làng Mộc Nhơn Thành
Làng có nhiều thợ mộc và thợ chạm khảm đạt trình độ tinh xảo. Thợ mộc Nhơn Thành (thị xã An Nhơn) đã từng là những nghệ nhân chuyên lo hoàn chỉnh nội thất nhiều căn nhà lá mái xưa kia trên đất An Nhơn và trên đất Bình Định.
Hiện nay, nghề mộc Nhơn Thành không phát triển mấy, nhưng nghề chạm khảm thì rất đắc dụng vì nó phù hợp với thị hiếu khách hàng thời mở cửa, hội nhập.
Làng Nón ngựa Gò Găng
Xưa kia nhân dân Bình Định làm ra một loại nón lá độc đáo, trên đỉnh có chớp bạc. Nó thường dùng để các quan lại đi ngựa đội, nên gọi là nón ngựa và chỉ bày bán tại chợ Gò Găng, (nay thuộc phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn) nên gọi là Nón Gò Găng. Nón Gò Găng được làm tại làng Phú Gia, thuộc xã Cát Tường, huyện Phù Cát. Nhân dân gọi là nón ngựa chớp bạc.
Muốn làm được một chiếc nón Gò Găng phải trải qua nhiều công đoạn chính là làm mê sườn; đan, rút, luồn, thắt sườn; chọn vành, kết vành, bủa lá, chằm nón; thêu họa tiết... Dùng cây dang hay tre nứa, chẻ nhỏ, chuốc nhẵn, đan xen vào nhau thành mê sườn, bước tiếp theo là đặt trên khung nón, rồi đặt lá cọ trên mê sườn và tiến hành chằm nón.
Mỗi công đoạn do một thôn, một xóm làm riêng theo hình thức chuyên môn hóa. Thôn Phú Gia và thôn Xuân Quang chủ yếu là mua sườn mê và làm ra thành phẩm.
Làm nón Gò Găng, khó nhất là nguyên vật liệu, Lá để lợp nón phải là lá kè hái từ vùng núi Vĩnh Thạnh, Gia Lai; vành nón phải làm từ rễ cây dứa biển chỉ có ở vùng núi sát biển; nan đan sườn nón phải được chuốt từ cây dang lấy trên núi. Thứ đến là thêu họa tiết long, lân, quy, phụng, song hổ, song long bên trong nón.
Hiện nay ở xã Cát Tường còn khoảng 120 hộ làm nón ngựa. Ngoài Phú Gia, những thôn lân cận như Kiều Đông, Xuân Quang cũng làm nón, nhưng chủ yếu vẫn là ở Phú Gia.
Làng Rèn Tây Phương Danh
Làng Rèn Tây Phương Danh, phường Đập Đá, thị xã An Nhơn, thờ Cao Dã Tượng, Lư Cao Sơn, Đặng Văn Long với câu đối: “Nghệ siêu bách kỷ ân tổ đức, Khí cụ ngũ hành nghĩa tiền nhân”.
Lễ cúng Tổ trở thành lễ hội Làng Rèn, bắt đầu từ 11 khai lễ đến trưa 12 tháng 2 âm lịch thì khoản đãi. Trong lễ có khởi chung cổ, nhã nhạc, văn tế; trong hội có hát lễ. Ngày nay vẫn còn theo lệ ấy.
Tương truyền, từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII, trong số những người Đàng Ngoài vào Đàng Trong khai hoang lập làng, có một nghệ nhân tên là Cao Dã Tượng mang nghề rèn phương Bắc vào đây dựng nghiệp. Cuối thế kỷ XVIII, nghĩa quân Tây Sơn đã chọn vùng Phương Danh làm nơi sản xuất nông cụ, rèn đúc vũ khí.
Làng Rèn Tây Phương Danh đã từng cung cấp nông cụ, vũ khí thô sơ phục vụ sản xuất và chiến đấu trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ xâm lược.
Làng rèn Tây Phương Danh có rất nhiều thợ giỏi vang bóng một thời như ông Bảy Châu rèn rựa, ông Sáu Thiện và ông Trần Thành rèn cuốc, ông Sáu Huỳnh rèn câu liêm, ông Bảy Tính rèn kéo thợ may, ông Bảy Cựu rèn đồ thợ mộc. Các tay nghề giỏi đều có hậu duệ để truyền.
Sau một thời gian suy giảm, từ 1960-1975, nghề rèn Phương Danh phát triển mạnh, các hộ làm nghề rèn có thu nhập cao hơn các hộ làm nghề khác trong vùng. Một số hộ có ruộng, nhưng lại giao cho người khác làm, còn mình thì chuyên làm nghề rèn và thu nhập chính cũng từ nghề rèn. Sau giải phóng, năm 1978, Hợp tác xã Rèn Đập Đá được thành lập; nghề rèn ngày càng thịnh vượng. Giai đoạn 1979-1985 là thời kỳ hoàng kim của Làng Rèn Phương Danh.
Hiện nay, tại Tây Phương Danh có khoản 300 hộ, 1.700 lao động làm nghề rèn, mỗi lò chuyên sản xuất một hay vài ba sản phẩm mang tính gia truyền như lò chuyên sản xuất dao rựa, lò chuyên sản xuất đồ nghề thợ mộc, lò chuyên sản xuất kéo...
Làng Rượu Bàu Đá.
Bàu Đá thuộc thôn Cù Lâm Bắc, xã Nhơn Lộc, thị xã An Nhơn. Xóm Bàu Đá có ngôi miếu cổ gọi là Miếu Bàu Đá, nằm cạnh bàu nước mang tên Bàu Đá. Chính cái bàu nước cung cấp nguồn nước nấu rượu đã tạo cho rượu gạo nơi đây có chất lượng cao với cái tên bất hủ: Rượu Bàu Đá.
Rượu Bàu Đá đưoc cất bằng gạo. Gạo nào cũng nấu được rượu, nhưng có thứ thì kém nước, có thứ thì nấu được nước như gạo ô-môn hột tròn. Cho nước ngon nhất là gạo lúa trì, hột gạo đỏ nhưng rượu lại trong và ngọt. Về men, thì dùng men ta có độ ngót hơn men nấu rượu cần. Thường thì 5 kg gạo cho từ 32 đến 35 viên men. Men phải giã thật nhỏ, rây lên trên cơm cho thật đều, không đều thì cơm rượu sẽ bị nhớt. Rắc đều men xong thì cho cơm vô thạp đậy kỹ để ba đêm. Nóng quá hay lạnh quá, rượu dễ bị hư. Tiết nam già, trời nóng bức, rượu cũng kém nước. Vì thế, mùa hè, phải để thạp ở chỗ có gió mát, thỉnh thoảng xối nước lạnh ngoài thạp. Tiết mưa lạnh thì bịt ni lông, đậy cho ấm để rượu được ngon.
Từ xưa đến nay, Rượu Bàu Đá luôn được chưng cất theo quy trình thủ công. Cứ 5 kg gạo thì đổ hai gàu nước, nấu sẽ cho ra 3 lít rượu nhất, 3,5 lít rượu nhì và 4 lít rượu ba.
Cả thôn Cù Lâm có 34 hộ chuyên nấu rượu theo phương pháp truyền thống. Những vùng xung quanh như An Thành, Tân Lập, Tráng Long đều có nấu rượu, nhưng không phải là rượu Bàu Đá chính hiệu.
Rượu Bàu Đá được công nhận đạt tiêu chuẩn Việt Nam là thương hiệu nổi tiếng trong nước về “tứ đại tửu”. Nếu đem Rượu Bàu Đá thứ thiệt, nhỏ một ít vào khô mực, khô cá và bật diêm lên thì một ngọn lửa trong trẻo viên mãn bùng lên từ rượu tẩm làm thơm nức đĩa mồi truyền thống; sờ vào da chum, da bình đựng rượu Bàu Đá thì thấy mát tay. Một giọt rượu nhỏ lên da, cái mát lạnh truyền đến tận tim.
Làng Thảm xơ dừa Tam Quan
Huyện Hoài Nhơn, nhất là xã Tam Quan vốn nổi tiếng từ lâu đời là xứ dừa. Nghề làm thảm xơ dừa ở Tam Quan ra đời và phát triển từ những năm 30 của thế kỷ XX, tuy lúc thăng, lúc trầm, nhưng vẫn được duy trì và phát triển qua các giai đoạn lịch sử, nhất là từ sau khi nước nhà hoàn toàn thống nhất.
Những năm cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, tại Tam Quan đã hình thành 35 hợp tác xã thảm xơ dừa, trong đó hợp tác xã sản xuất thảm xơ dừa xuất khẩu Tam Quan đã từng vang bóng một thời vào những năm 1987-1990. Sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, thị trường xuất khẩu thảm xơ dừa bế tắc, quy mô nghề làm thảm xơ dừa ở Tam Quan bị thu hẹp cho đến những năm cuối thế kỷ XX thì mới được phục hồi. Hiện nay, tại Tam Quan vẫn còn nhiều hộ gia dình tiếp tục duy trì nghề này với sản phẩm đa dạng hơn về mẫu mã.
Làng Thêu Phương Danh
Tại Phương Danh, phường Đập Đá, thị xã An Nhơn, nghề thêu đã có từ thế kỷ 19, nhưng bị mai một. Đến nay nghề thêu ở đây đã được phục hồi.
Từ xa xưa, những sản phẩm thêu của Phương Danh như đồ thờ tự, hoành phi, nghi trướng nổi tiếng với đường kim, mũi chỉ sắc sảo, những nét hoa văn độc đáo, tạo sự thích thú, cuốn hút khách hàng ngay từ cái nhìn đầu tiên. Những năm trước 1975, Làng Thêu Phương Danh rất thịnh vượng, có cả trăm hộ làm với 150-200 lao động. Một thời gian sau, do đời sống kinh tế quá khó khăn, nhu cầu sử dụng các đồ thêu để trưng bày, thờ cúng trong gia đình giảm mạnh, nên nghề thêu mai một. Đến những năm thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình kinh tế nước nhà ngày càng sáng sủa, nổi lo “cơm áo” không còn là gánh nặng gia đình, nhu cầu thẩm mỹ, thờ tự hướng về cội nguồn, tổ tiên được mọi người quan tâm hơn. Nhờ đó, Làng Thêu Phương Danh có điều kiện hồi sinh và phát triển.
Cuối năm 2008, tại Phương Danh có khoản 120 lao động làm nghề thêu các sản phẩm thờ tự, hiếu hỷ, tân gia, tranh ảnh trang trí, khăn trải bàn... Làng Thêu Phương Danh không chỉ dựa vào vốn nghề truyền thống mà còn áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại, biết sáng tạo và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã phù hợp thị hiếu người tiêu dùng, làm ra nhiều mặt hàng mới theo yêu cầu của khách hàng. Người có công đưa những sản phẩm mới vào Làng Thêu, bước đầu hiện đại hóa nghề thêu Phương Danh là ông Nguyễn Văn Thảo, chủ cơ sở Hai Thảo. Chủ cơ sở thêu Hai Thảo đã đầu tư giàn máy thêu 15 chiếc, thuê thợ thêu ở địa phương vào làm; nhiều hộ gia đình nhận hàng của cơ sở về thêu gia công.
Làng Thêu Phương Danh nhận thêu theo đơn đặt hàng. Thị trường tiêu thụ hàng thêu ren Phương Danh là các thành phố Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Hà Nội, Sài Gòn và Việt kiều về nước.
Làng Tiện gỗ Bắc Nhạn Tháp
Ty thờ nghề tiện gỗ ở Bắc Nhạn Tháp (xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn) thờ ông Tổ tiện tròn, cúng vào ngày 12 tháng 9 âm lịch và thờ ông Tổ chạm cúng vào ngày 12 tháng chạp. Họ Đặng, họ Bùi, họ Phạm là những tộc họ truyền nối nghề tiện gỗ từ bao đời nay.
Ngày xưa, các sản phảm gỗ tiện như trang thờ, lư hương, chân đèn, đài, bàn ghế tiện chạm, không có mấy gia đình mua sắm nổi, nếu không giàu có. Ngày nay, các mặt hàng gỗ tiện phong phú hơn, đa dạng hơn và phổ thông hơn. Đó là do kinh tế phát triển, đời sống nâng cao, đặc biệt là nhiều phương tiện máy móc đã thay vì cách làm thủ công tốn nhiều công sức và nghề gỗ tiện ngày càng liên hoàn với nghề cẩn xà cừ.
Nhạn Tháp có khoảng 100 hộ, 1.000 lao động đang làm nghề gỗ tiện, nổi tiếng là cơ sở gỗ tiện Lưu Nhất thường nhật có 70-100 lao động hành nghề; sản phẩm xuất sang Trung Quốc, Đài Loan.
Đầu năm 2010, Bắc Nhạn Tháp được Ủy ban Nhân dân tỉnh công nhận là Làng nghề truyền thống.
Làng Tơ lụa An Thường
An Thường, nay thuộc huyện Hoài Ân, xưa kia nổi tiếng về nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa. Thời kháng chiến chống Pháp, lụa đậu tư, đậu sáu An Thường nổi tiếng khu V.
Làng Tơ lụa Phú Phong
Tổng Phú Phong xưa kia (nay là thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn) từ lâu đã nổi tiếng về tơ lụa. Thời Pháp thuộc, tư bản thực dân đã xây dựng tại đây một nhà máy dệt mang tên Hãng dệt Dellignon, quy mô lớn sau nhà máy dệt Nam Định.
Sau ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất nước nhà, thời bao cấp, Công ty Dâu tằm tơ của tĩnh đã xây dung tại thị trấn Phú Phong một nhả máy sản xuất kén tằm, nhưng vì hoạt động không hiệu quả nên được cải tạo, nâng cấp làm khách sạn tồn tại đến nay.
Làng Trống Nhơn Khánh
Trong các cuộc lễ hội, trong biểu diễn hát Bội, không thể không có tiếng trống. Tiếng trống làm cho mọi người phấn chấn, háo hức; tiếng trống là một nét đẹp văn hóa. Cho nên nghề làm trống đã ra đời rất sớm tại tỉnh Bình Định. Làng làm trống Nhơn Khánh, thị xã An Nhơn, nổi tiếng từ những năm đầu thế kỷ XX. Ông Nguyễn Quý, thường gọi là Ông Bảy là nghệ nhân làm trống vang bóng một thời ở Bình Định và Tây Nguyên. Xưa kia, ngoài việc làm trống, ông còn làm kiều ngựa cho Chánh tổng, Lý trưởng, bao dao găm, hia cho các công tử.
Theo kinh nghiệm của ông Bảy, làm trống quý nhất là gỗ trâm, thứ dến gỗ chò chai. Một số nơi thường dùng gỗ ngo, gỗ mít để làm trống.
Trống có nhiều loại như trống bàn, trống cán, trống chiếng, trống chầu, trống sấm. Trống sấm dùng cho nhà chùa, thông thường đường kính bề mặt từ 0,8 đến 1m. Trong chùa, đại hồng chung đi với trống sấm, da trì đi với trống kình. Có loại trống lớn phải dùng da của hai con trâu, da mỗi con bịt một mặt trống.
Ngày nay, tại xã Nhơn Khánh vẫn còn một số gia đình theo nghiệp làm trống, rất có chữ tín với thương hiệu gia truyền.
Làng Trống Tây Bình
Tại thôn Mỹ An, xã Tây Bình, huyện Tây Sơn có nhiều gia đình còn lưu giữ vốn nghề làm trống thời Tây Sơn. Mỹ An xưa kia trồng rất nhiều mít và có trại nuôi trâu tập trung, nay vẫn còn địa danh “ uộng chuồng trâu . Có lẽ vì vậy mà nghề làm trống thịnh hành tại làng nầy.
Khác với các nghệ nhân làm trống ở Nhơn Khánh dùng cây chò chai là chủ yếu để làm trống, nghệ nhân Mỹ An dùng cây gỗ mít để làm trống. Dù trống có những kích cỡ to, đường kính mặt trống 1m -1,2m, hay kích cỡ nhỏ hơn, đường kính 0,4m - 0,6m, thợ làm trống Mỹ An vẫn dùng cây gỗ mít đục rổng ruột, chừa lại vòng ngoài dùng làm tang trống. Trống nhỏ, trống lớn làm tại Mỹ An đều không dùng những thanh gỗ nhỏ ghép lại như một số nơi, mà dùng gỗ mít nguyên cây làm tang trống. Gỗ mít vốn có khả năng hướng âm, khuyếch âm, lại được làm nguyên cây nên âm vang rất ấm, rất trong, rất xa.
Làng Võ
Tỉnh Bình Định nổi tiếng về Võ Tây Sơn, nên xưa kia có nhiều Làng Võ lừng danh trong nước, như các Làng Võ An Thái, An Vinh, Thuận Truyền.
Làng Võ An Thái
An Thái (nay thuộc Nhơn Phúc, thị xã An Nhơn) là một làng quê nằm bên bờ sông Côn. Nơi đây, từ thế kỷ XVI-XVII đã trở thành một tụ điểm thương mại sầm uất, có nhiều cửa hàng thuốc bắc của người Hoa, đồng thời cũng nổi tiếng về võ cổ truyền từ thời thầy Giáo Hiến vào vùng Tuy Viễn mở trường dạy chữ, dạy võ tại thôn Thắng Công. Cũng từ đó, chính An Thái là nơi truyền bá võ học có ảnh hưởng lớn trong vùng và đã sản sinh ra nhiều vó sư nổi tiếng như Tổ sư Lâm Hữu Phong (sinh năm 1855), Lâm Đình Thọ (Hương kiểm Lài), bà Sáu Sanh, Diệp Trường Phát (Tàu Sáu)...
Môn phái tiêu biểu cho làng An Thái thuộc dòng họ Lâm, đứng đầu là võ sư Lâm Hữu Phong, với võ đường mang tên Bình Sơn (Bình Định-Tây Sơn). Môn phái võ đường Bình Sơn được truyền lại cho Lâm Đình Thọ; về sau Lâm Đình Thọ truyền lại cho 2 con là Lâm Ngọc Lài và Lâm Ngọc Phú.
Khi An Thái trở thành thị tứ buôn bán sầm uất của người Hoa, thì nơi đây còn có thêm môn phái võ của Diệp Trường Phát (sinh năm 1896). Diệp Trường Phát đã rút tỉa tinh hoa võ Tàu và võ Việt tạo ra những nét độc đáo của võ Bình Định. Ông là người khởi xướng ra Lễ hội “Xô cỗ-Đổ giàn“ nhân ngày rằm tháng 7 âm lịch, tức lễ Vu Lan, được nhân dân quen gọi là ngày “Báo hiếu“, ngày “Xá tội vong nhân“.
Làng Võ An Vinh
An Vinh (nay thuộc xã Tây Vinh, huyện Tây Sơn) cũng là làng nằm bên bờ sông Côn, đối diện với làng An Thái. Theo các cụ già trong làng cho biết thì xưa kia làng thường bị bọn cướp đền hoành hành nên muốn tự bảo vệ, mọi nhà trong làng, nhất là nhà giàu có phải cho con theo thầy học võ.
Cũng như An Thái, làng võ An Vinh có nhiều môn phái. Đứng đầu các môn phái võ An Vinh là võ sư Nguyễn Ngạt (Hương mục Ngạt), Khiến Phạm, Năm Nghĩa, Hương kiểm Cáo (con Hương mục Ngạt), Bảy Lụt, bà Tám Cảng....
Bảy Lụt là học trò xuất sắc của Hương mục Ngạt. Bảy Lụt tên thật là Nguyễn An, đã từng so tài với Dư Đành cầm đầu một đảng cướp khét tiếng phủ Quy Nhơn.
Tám Cảng là con gái võ sư Nguyễn Ngạt. Võ sư tuyên bố ai đánh thắng Tám Cảng thì ông gả con gái cho. Dư Hữu ở Tiên Thuận đến so tài, lần đầu bị Tám Cảng đánh bại. Sau một thời gian luyện thêm võ công, lần thứ hai so tài, Dư Hữu đánh thắng. Về sau Tám Cảng và Dư Hữu nên vợ, nên chồng.
Làng Võ Thuận Truyền
Thuận Truyền xưa kia là tổng Thuận Truyền, nay thuộc xã Bình Thuận, huyện Tây Sơn. Đứng đầu Làng Võ Thuận Truyền là họ Hồ, họ Trần và họ Phan.
Do điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, giáp với vùng núi, luôn bị thú dử đe dọa và bọn cướp hoành hành nên những người đến định cư tại nơi đây đều phải có bản lĩnh và võ nghệ cao cường. Do đó, xuất hiện nhiều môn phái võ. Nổi tiếng nhất là môn phái họ Hồ, đứng đầu là Hồ Triêm (Đốc Năm) cùng vợ là Lê Thị Quỳnh Hà; cả hai đều giỏi cả văn lẫn võ. Bà Hà là người dày công sáng lập ra môn phái họ Hồ lừng lẫy một thời. Ông Hồ Triêm và bà Quỳnh Hà sinh ra 10 người con đều theo nghiệp võ của cha mẹ, nhưng chỉ có người con thứ 9 tên là Hồ Nhu, thường gọi là Hồ Ngạnh là có năng khiếu bẩm sinh, đặc biệt nổi tiếng về roi. Ông thường dùng roi chiến (tề mi) đánh cả hai đầu. Roi của ông thường đánh nghịch “Dĩ nghịch chế thuận“, vận dụng triệt để phép âm dương, khi bị đối phương tấn công thì không đỡ mà lượn theo roi của đối phương để trả đòn, đánh hạ đối thủ. Sau nầy ông tiếp tục truyền lại cho con cháu, nhưng đáng tiếc là đến nay môn phái ông không ai còn giữ được nguyên bản.
Roi Thuận Truyền có 2 tuyệt kỷ là Đánh văng roi và Đâm so đũa (đâm vào nách). Đánh văng roi là phép mượn sức người đánh người, theo kiểu lấy 4 lạng đẩy nghìn cân. Nếu đánh xuôi chiều, cây roi đối phương bị vuột bàn tay mà văng ra, nếu đánh ngược chiều, cây roi trong tay đối phương tuy không bị vuột , nhưng sẽ gãy tiện và đối phương có thể bị đánh ngã dến bất tỉnh. Đâm so dũa, đâm vào nách là một kỹ thuật thượng thừa nhằm vào nơi đối phương giữ kín mà lách vào. Đường roi thường đi nương theo chính thân roi của đối phương mà luồn tới. Ngay khi ấy, dù ngọn roi của đối phương có nhanh đến mấy, thì người đánh chỉ cần nghiêng lưng và xoay dốc roi đẩy qua, đồng thời ghìm ngọn roi của mình là trúng đích.
Lễ hội
Cũng như nhiều địa phương trong nước, nhân dân Bình Định còn duy trì nhiều lễ hội mang nét đẹp truyền thống văn hóa dân tộc.
Lễ hội Cầu Ngư
Hằng năm, trước khi bắt đầu mùa đánh cá biển, ngư dân các làng làm nghề biển thường tổ chức Lễ hội Cầu ngư. gồm các nghi thức như: lễ Nghinh thần nhập điện, lễ Tế Xuân, lễ Tế thần Nam Hải, lễ Ra quân đánh bắt hải sản, lễ Khởi ca. Trong thời gian diễn ra lễ hội, có tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao như đua thuyền rồng, các trò chơi dân gian, hát múa Bả trạo, hát Bội v.v..
Lễ hội Chợ Gò
Chợ Gò nằm tại thị trấn Tuy Phước. Chợ Gò chỉ họp mỗi năm một phiên vào mùng một Tết Nguyên đán. Người ta đi chợ không phải để bán, mua mà chủ yếu là đi hội, xuất hành đầu năm mong cho vạn sự như ý.
Tương truyền dưới thời vua Cảnh Thịnh, nhà Tây Sơn, mùa hè năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Ánh đem quân đánh chiếm Quy Nhơn, đến mùa xuân năm Canh Thân (1800), hai danh tướng nhà Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng đem 3 vạn quân vào Quy Nhơn chia làm hai cánh thủy, bộ, tấn công quân Nguyễn và vây hãm thành Quy Nhơn (thành Hoàng Đế) đang bị đối phương chiếm giữ. Để cổ vũ tinh thần quân sĩ nguôi đi nỗi nhớ nhà trong những ngày tết đến, xuân về, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng đã có sáng kiến tổ chức hội vui xuân trong ba ngày Tết. Địa điểm được chọn là gò đất nằm sát núi Trường Úc bên bờ sông, một địa thế đẹp nằm giữa cửa Thị Nại và thành Hoàng Đế rất thuận tiện cho quân thủy đang áng ngữ, trấn giữ cửa Thị Nại, và cho cả quân bộ đang vây thành Hoàng Đế đến dự hội. Từ đó về sau, dù nhà Tây Sơn bị sụp đổ, nhưng Lễ hội Chợ Gò vẫn được duy trì.
Sau một thời gian bẳng đi do nhiều lý do, thời nước nhà mở cửa, đổi mới, Lễ hội Chợ Gò Tuy Phước được khôi phục với nội dung, hình thức mang tính giáo dục và đậm chất văn hóa dân tộc. Trong chợ Gò có bày bán nhiều thứ hàng hóa mang tính cầu lộc, cầu phúc như trầu cau, trái cây, áo quần, đồ chơi trẻ em... Người đi dự lễ hội đi vòng quanh chợ, mua một vài món hàng, nhất là trầu cau để lấy cái may mắn đầu năm. Tại chợ, còn tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, hấp dẫn nhất đối với nhân dân, nhất là lớp trẻ như múa lân, chọi gà, biểu diễn võ dân tộc, các trò chơi dân gian truyền thống...
Lễ hội Chùa Ông Núi
Hằng năm, vào ngày 24, 25 tháng giêng âm lịch, nhân dân Bình Định và các tỉnh trong vùng, tấp nập kéo đến chùa Ông Núi, tên chữ là Linh Phong Tự, để ở xã Cát Tiến, huyện Phù Cát, dự lễ hội, nhân ngày giỗ Hoà thượng Thich Trường Tịnh, người có công lớn làm cho chùa ngày càng phát triển theo hướng tốt đời, đẹp đạo.
Cảnh trí ngôi chùa mới rất khang trang, mang đậm dấu ấn ngôi chùa cổ, được xây dựng lại trên nền cũ hòa quyện với cảnh núi non hùng vĩ, cây cối xanh tươi ngút ngàn, trông thật kỳ thú, nên thơ.
Trước khi bước chân vào hang Tổ, nơi xưa kia Sư ông đã từng sống và tu luyện, hầu như ai nấy cũng đều mua một chai nước nhỏ được những người bán rong chào mời trên đường lên hang, có người mang theo bó hoa rừng. Khách hành hương đặt chai nước, hay bó hoa rừng lên bàn thờ có pho tượng thể hiện hình ảnh một thiền sư, mình mặc áo vỏ cây, tay cầm thiền trượng; miệng thầm khấn, cầu lộc đầu xuân.
Lễ hội Đâm trâu
Trên đất Bình Định, các dân tộc Chăm, Ba Na, H’ Rê có mặt rất sớm, trước cả người Kinh. Họ có nhiều lễ hội rất phong phú, đa dạng. Đặc biệt nhất là Lễ hội Đâm trâu của người Ba Na ở Vĩnh Thạnh.
Lễ Đâm trâu, người Ba Na gọi là Tấm Kờ pô hoặc Sa Kơ pô là lễ hội mang tính cộng đồng của một gia đình, một dòng họ, một bản làng, nhằm ăn mừng một sự kiện quan trọng nào đó.
Lễ Đâm trâu được tiến hành theo các bước sau đây:
- Chọn cây rừng làm cột đâm trâu. Công việc nầy giao cho nam giới. Người Ba Na ở Vĩnh Thạnh thường chọn cây cao, to, thẳng, rắn chắc làm cột đâm trâu.
- Trang trí cột đâm trâu. Đây là việc làm công phu, mang tính nghệ thuật nên thường giao cho những người khéo tay, có đầu óc thẩm mỹ. Các “nghệ nhân dân gian” chạm trỗ xung quanh cột đâm trâu hình thù những động vật như khỉ, hưu, nai, các loại chim và trang trí nhiều loại hoa văn về cây cối, mặt trời, mặt trăng mang đậm màu sắc dân tộc.
- Chọn vị trí để dựng cột dâm trâu. Thông thường vị trí dựng cột đâm trâu phải rộng rãi, bằng phẳng, quang đãng, nằm trong khu dân cư.
- Vào rừng chọn trâu lừa về, bắt trâu buộc chặt vào cột đâm trâu. Công việc nầy thuộc về những người đàn ông khoẻ mạnh.
- Tiến hành cúng tế “khai mạc” Lễ Đâm trâu. Đây là công việc của già làng, những người chuyên lo việc cúng lễ. Người chủ lễ thay mặt gia đình, dòng họ hay cộng đồng làng nói lên ý nghĩa đâm trâu và cầu mong các vị thần linh (yàng) đem lại nhiều điều may mắn. Sau khi tiến hành xong nghi lễ “ khai mạc ”, những người nam giới gióng lên những hồi chiêng, hồi cồng tạo nên không khí hào hứng, tưng bừng..
- Người đàn ông già khỏe mạnh trong trang phục lễ truyền thống dùng giáo đâm những phát đầu tiên vào cổ con trâu, nếu trâu chưa chết thì tiếp tục đâm cho đến khi trâu ngã gục xuống đất. Lúc nầy chiêng, trống rền vang, mọi người say sưa hò la, nhảy múa, không khí vô cùng náo nức, sôi động.
- Tiến hành làm thịt con trâu, đầu trâu treo lại trên cột, xương, thịt đem đi nấu nướng.
- Tổ chức ăn, uống rượu cần, vui chơi, nhảy múa, ca hát.
Lễ Đâm trâu là ngày hội lớn của cộng đồng người Ba Na, trước đây thường kéo dài 3 ngày. Trong những ngày diễn ra Lễ Đâm trâu, nam giới ăn mạc quàn áo truyền thống, nữ giới mặc những bộ váy đẹp nhất; nam nữ, già trẻ cùng nắm tay nhau nhảy múa những vũ điệu dân tộc rất đặc sắc.
Lễ hội Đèo Nhông
Từ năm 1985, sau khi Tượng đài Chiến thắng Đèo Nhông được dựng lên, năm nào cũng vậy, hễ đến ngày mùng Năm Tết am lịch là nhân dân huyện Phù Mỹ lũ lượt kéo đến Đèo Nhông, nơi diễn ra chiến công oanh liệt của quân Giải phóng vào đầu năm 1965, tiêu diệt hai tiểu đoan quân ngụy Sài Gòn, tham dự Lễ hội Đeo Nhông. Đây là một trong những lễ hội kỷ niệm một sự kiện lịch sử thời hiện đại của nhân dân Bình Định.
Cũng như các Lễ hội cổ truyền khác, phần lễ có lễ dâng hương, đặt vòng hoa trước Tượng đài Chiến thắng; đọc diễn văn ôn lại lịch sử và nói lên ý nghĩa của chiến thắng, nêu nhiệm vụ phát huy truyền thống cách mạng, tích cực góp phần làm cho đất nước, quê hương ngày càng giàu mạnh, văn minh. Sau đó là phần hội gồm nhiều hoạt động văn hóa, thể thao phong phú, truyền thống có, hiện đại có như các trò chơi dân gian, đánh cờ người, đấu bóng chuyền, cầu lông, hát Bài chòi, hát Bội... Những năm chẵn, số người tham gia lễ hội lên đến gần vạn người.
Lễ hội Đô thị Nước Mặn
Hằng năm, trong 3 ngày, từ ngày cuối tháng giêng đến 2 ngày đầu tháng 2 âm lịch, nhân dân thôn An Hòa và xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, thường tổ chức Lễ hội Đô thị Nước Mặn, còn gọi là Lễ hội Chùa Bà. Đây là một trong những lễ hội cổ truyền, có quy mô lớn và ra đời sớm nhất ở tỉnh Bình Định, cách đây hơn 4 thế kỷ, kể từ khi cảng thị Nước Mặn ra đời và trở nên phồn thịnh.
Cách đây gần 500 năm, nhiều cư dân người Việt và một số cư dân người Hoa theo đường biển vào phủ Quy Nhơn lập các làng Vĩnh An, Lạc Hòa, từ đó hình thành nên đô thị thương cảng Nước Mặn nổi tiếng ở Đàng Trong thời bấy giờ, đã từng có trong bản đồ hàng hải quốc tế của người Tây Ban Nha và người Bồ Đào Nha. Tại trung tâm đô thị Nước Mặn có ngôi Chùa Bà thờ Thiên Hậu Thánh mẫu, một nhân vật có công cứu vớt tàu thuyền mắc nạn giữa biển khơi. Hằng năm vào ngày cuối tháng giêng và 2 ngày đầu tháng hai âm lịch, cư dân đô thị tổ chức lễ hội tại Chùa Bà.
Thời cảng thị Nước Mặn phồn vinh, phố phường đông đúc, vào ngày lễ, dân cảng thị, cả người Việt lẫn người Hoa khiêng kiệu tới miếu Thành Hoàng, miếu Quán Thánh, miếu Bà Mụ rước linh vị của các vị thần nầy về chùa Bà để chuẩn bị tế lễ. Nửa đêm 29 hay 30 tháng giêng âm lịch (tùy tháng đủ hay thiếu), cử hành lễ tế chính thức các vị thần Thành Hoàng, Thiên Hậu, Quán Thánh, Bà Mụ. Sau ngày tế thần, sang ngày thứ hai và thứ ba (tức ngày1, 2 tháng 2 âm lịch), là hội. Nghi thức đầu tiên là rước các biểu trưng những người có công khai sáng vùng đất nầy: người đốn cây phá rừng ngập mặn, người vỡ ruộng, đắp bờ, người bủa lưới đánh cá, người chăn nuôi gia súc… được cung kính đặt lên kiệu nối nhau khiêng đi. Còn có biểu trưng tàu viễn dương với những tay chèo vạm vỡ vượt sóng gió, làm sống lại những ngày xưa kia tàu thuyền bốn phương tới cảng thị buôn bán.
Sau cuộc rước biểu trưng, ban ngày, các trò chơi dân gian nối tiếp diễn ra như đánh đu, kéo co, đấu võ, đấu vật, đánh cù, chọi gà, nấu cơm thi, bịt mắt đập ấm, bắt vịt, bắt dê... Có nhiều trò chơi tao nhã như thả thơ, xổ cổ nhơn, đánh bài chòi, đánh cờ người; lại có cả những trò chơi tiếp nhận của người Hoa như tục đổ giàn, đốt cây bông. Ban đêm các gánh hát nổi tiếng được mời tới diễn tuồng.
Ngày nay, cảng thị Nước Mặn, với những dãy phố ngang dọc như bàn cờ, có dãy chuyên buôn bán thuốc bắc, vàng bạc, tơ lụa... không còn nữa. Miếu thờ duy nhất còn lại là Chùa Bà thờ cả ba vị: Thiên Hậu ở gian giữa, Thành Hoàng và Bà Mụ ở hai gian hai bên. Nay Lễ hội Đô thị Nước Mặn vẫn được tổ chức như xưa, phần tế thần vẫn được duy trì theo ý nguyện của nhân dân, duy phần rước biểu trưng thì không còn; các trò chơi dân gian mang tính truyền thống được tổ chức xen lẫn các hoạt động thể dục thể thao hiện đại. Ban đêm vẫn tổ chức hát bội rất sôi nổi, hấp dẫn.
Lễ hội Đống Đa
Chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa quét sạch 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh ra khỏi biên cương Tổ quốc là một trong những dấu son sáng chói trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, là niềm tự hào của các thế hệ người Việt Nam chúng ta.
Nhưng dưới triều Nguyễn, nhân dân Tây Sơn, nhất là nhân dân làng Kiên Mỹ phải bí mật thờ ba anh em nhà Tây Sơn tại đình, và vào dịp Tết cơm mới, ngày 15 tháng 11 âm lịch, họ mật báo cho nhau đến đình giỗ Ba Ngài; nhân dân trong nước không được tổ chức lễ hội, thậm chí không ai dám nhắc đến chiến công oanh liệt Ngọc Hồi-Đống Đa.
Từ hơn nửa thế kỷ qua, hằng năm cứ vào ngày mùng 4, mùng 5 tháng giêng âm lịch, nhân dân Bình Định và các tỉnh trong vùng náo nức đi dự Lễ hội Đống Đa.
Sau ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, Lễ hội Đống Đa được nhân dân huyện Tây Sơn và tỉnh Bình Định tổ chức rất trọng thể tại Bảo tàng Quang Trung (thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn); những năm chẵn thì tổ chức rất bài bản, hoành tráng có đầy đủ các nghi thức lễ và hội, có các hoạt động văn hóa-thể thao tái hiện lịch sử. Phần lễ có lễ dâng hương, lễ rước Tây Sơn Tam Kiệt nhập Điện. Phần hội có biểu diễn nhiều tiết mục nghệ thuật, võ thuật độc đáo như trống trận Quang Trung, múa dân tộc và cồng chiêng Ba Na, võ Tây Sơn, đấu võ đài; nhiều năm có voi, ngựa biểu dĩễn, có tổ chức văn hóa ẩm thực Tây Sơn-Bình Định, nên rất hấp dẫn du khách.
Lễ hội Làng Rèn
Lễ hội Làng Rèn ở An Nhơn là một trong những lễ hội làng nghề, ngày nay vẫn còn được duy trì như thuở mới khai nghiệp.
Làng Rèn rất đỗi tự hào về thành quả lao động kỳ diệu của mình đã được khái quát trong bốn câu thơ: ”Thuần phong giáng hỏa độ nhân sinh, Kim khí tiêu tan biến ngũ hành. Thủy thổ hỏa khai tâm diệu kế, Giương oai vũ trụ hóa hùng anh”
Các nhân vật trong Ban lễ, nhất là Chánh bái phải được cộng đồng Làng Rèn chọn lựa kỹ, phải là bậc cao niên đức độ, gia phong nền nếp, lửa hương trọn vẹn. Chánh bái phải dọn mình trai giới suốt ba ngày trước khi hành lễ.
Phần lễ tiến hành vào ngày 12 tháng 2 âm lịch gồm lễ vọng (lễ cáo-tiên thường); lễ chánh tế; lễ tế tiền hiền, cô hồn; lễ nghinh Tổ rước Long đình nhập điện chầu. Lễ chánh tế được tổ chức tại điện chầu, sau đó là hội Xây chầu Hát án. Hát án tại Lễ hội Làng Rèn Phương Danh có các nghi thức khai trống, bạn hát chào lễ, dâng hoa tế Tổ, khởi ca.
Lễ hội Thanh Minh
Thanh minh là tiết thứ 5 trong 24 tiết của một năm, thường bắt đầu từ tháng ba, muộn lắm là đầu tháng tư âm lịch hàng năm. Đây là dịp tiết trời trong sáng, mát mẻ nhất trong 4 mùa.
Nhân dịp tiết Thanh Minh, nhân dân Bình Định xưa kia thường tổ chức Lễ hội Thanh Minh, tổ chức đi tảo mộ, dâng lễ vật cúng gia tiên, cúng Đất, Trời tại miếu, đình; cùng nhau góp tiền rước gánh hát Bội danh tiếng về xây chầu, hát án hoặc tổ chức các trò chơi dân gian; dân các làng ven biển thì tổ chức hát Bả trạo. Đình, miếu ở Bình Định thường là nơi thờ cúng những người có công khai hoang lập làng, được tôn là “Tiển hiền khai khẩn”, và những người có công lập chợ, đắp đập, xây đường thì được tôn là “Hậu hiền khai cơ”.
Cúng Thanh Minh là một tín ngưỡng dân gian mang tính nhân văn và tính cộng đồng cao, là một phong tục in đậm nét đẹp văn hóa dân tộc, vừa thể hiện sự tri ân các bậc tiền nhân, vừa tưởng nhớ, sẻ chia với những người đã mất không ai hương khói, cùng thờ.
Hiện nay, tại nhiều địa phương trong tỉnh còn giữ được Lể hội Thanh Minh, như ở thôn Mỹ Thuận, xã Tây Bình, thôn Tây Thuận, xã Tây Vinh, huyện Tây Sơn và ở Thanh Minh tự, phường Đống Đa, thành phố Quy Nhơn.
Lễ hội Viá Bà
Lễ hội Vía Bà nhằm tưởng nhớ công ơn, đức độ của bà Đỗ Thị Tân cách đây hơn 300 năm đã giúp cho nhiểu sản phụ địa phương được mẹ tròn, con vuông và được vua Tự Đức sắc phong “Ân đức độ nhân”, được nhân dân lập miếu thờ với tên gọi “Sản nương thần miếu“. Hàng năm đến ngày 17 tháng giêng âm lịch, nhân đân đến Miếu Bà tổ chức lễ vía, dâng hương.
Miếu Bà nằm tại thôn Cảnh Hàng, xã Nhơn Phong, thị xã An Nhơn, xưa kia lợp bằng tranh, vách đất.
Tương truyền rằng Bà đến Cảnh Hàng, Nhơn Phong từ thế kỷ thứ XVII, sống trong một túp lều tranh bên sông với nghề buôn thúng, bán bưng. Đặc biệt Bà rất mát tay trong việc đỡ đẻ, giúp cho các sản phụ khắp xóm gần, làng xa được mẹ tròn, con vuông. Đêm hôm mưa gió, dường sá xa xôi đến mấy, Bà cũng không quản ngại. Những ca ngược thai, đẻ khó, có bàn tay Bà là thai nhi nhanh chóng ra khỏi bụng mẹ, cất tiếng khóc chào đời, sản phụ an toàn. Bà chỉ đỡ đẻ giúp mọi người; mọi quà cáp, tiền bạc tạ ơn, Bà đều từ chối, không nhận, chỉ xin ghi nhận tấm lòng. Bỡi vậy, nhân dân trong vùng đều rất ngưỡng mộ, quý trọng Bà, coi Bà như một người hiền trời sai xuống thế gian làm việc thiện.
Dân gian truyền rằng một đêm nọ mưa to, gió lớn bão bùng, một con cọp trắng bỗng xuất hiện trong túp lều tranh đơn độc của Bà, chỉ leo léc một ngọn đèn dầu, làm Bà hoảng sợ đến bất tỉnh. Khi tỉnh dây, Bà thấy mình đang nằm trong một hang đá ở Núi Bà, bên cạnh một con cọp cái đang rên la vì đẻ khó. Lòng từ tâm của một bà mụ thôi thúc Bà đến bên con cọp cái thực hiện thiên chức giúp sản phụ được mẹ tròn, con vuông. Quả nhiên hổ con đã ra đời trong niềm mừng vui khôn xiết của đôi vợ chồng chúa sơn lâm. Hỗ đực llền cõng trả Bà Mụ về lại túp lều tranh. Từ đó về sau, đêm đêm khi bắt được chồn cheo hay kiếm được quả rừng thơm ngon, hổ đực mang xuống đặt trước cửa nhà Bà như để tỏ lòng tri ân.
Trước nhà Bà là một con sông nhỏ, có một vực nước xoáy sâu hun hút. Vào đêm 16 rạng ngày 17 tháng giêng âm lịch năm xưa, Bà ra sông giặt áo rồi ra đi không để lại vết tích gì. Dân làng chia nhau đi tìm khắp mọi nơi nhưng không thấy Bà ở đâu. Mọi người đều cho rằng Bà đã thăng về trời. Có người lấy một trái bưởi khắc tên Bà, rồi cầu cúng, thả xuống vực nước xoáy. Mấy hôm sau, dân chài ở cửa biển Đề Gi vớt được trái bưởi nói trên. Dân làng Cảnh Hàng ra rước trái bưởi về lầm lễ an táng, từ đó lấy ngày 17 tháng giêng âm lịch làm Ngày Lễ Vía Bà. Một ngôi miếu nhỏ được dựng lên trên nền nhà cũ của Bà để nhân dân trong làng tháng ngày lo hương khói. Địa điểm nầy trở thành trung tâm của Lễ hội Vía Bà được lưu truyền đến ngày nay.
Trong chiến tranh, ngôi miếu bị tàn phá, cả tấm sắc phong của vua Tự Đức cũng bị cháy rụi. Năm 1991, nhân dân địa phương tự nguyện đóng góp xây dựng lại ngôi miếu. Gần đây, cũng do dân đóng góp, miếu được xây mới, khang trang, to đẹp hơn.
Lễ hội Xô cỗ, Đổ giàn
Trong dân gian có câu: ”Đồn rằng An Thái chùa Bà, Làm chay, hát bội đông đà quá đông. Đàn bà cho chí đàn ông, Xem xong ba ngọ lại trông đổ giàn“,
Xô cỗ, Đổ giàn là một lễ hội dân gian vừa mang tính tâm linh, vừa mang tinh thần thượng võ. Địa điểm tổ chức xưa kia là Ngũ bang Hội quán, nơi thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu. Ngũ bang Hội quán do người Minh huơng (người Hoa đến định cư tại phủ Quy Nhơn) lập ra tại làng An Thái (nay thuộc Nhơn Phúc, thị xã An Nhơn).
Tương truyền, xưa kia Lễ hội Xô cỗ, Đổ giàn được tổ chức ba lần trong mổi con Giáp vào các năm Tý, Dậu, Sửu (nghĩa là 4 năm 1 lần) vào mùa Vu lan, trung tuần tháng bảy âm lịch. Nghi lễ diễn ra hết sức trọng thị. Ngưòi đi dự lễ hội phải ăn mặc áo dài chữ thọ, tùy theo ngôi thứ mà có màu sắc khác nhau: đỏ, xanh, đen. Tập thể năm bang cử ra một bậc cao niên có uy tín làm Chánh bái. Chánh bái phải ăn chay, nằm đất từ đêm trước.
Phần hành lễ được tiến hành với những nghi thức trang trọng. Vào giờ sửu, tức khoảng 2-3 giờ sáng ngày rằm tháng bảy âm lịch, Lễ rước Nước bắt đầu. Nước được lấy tại thường nguồn sông Côn, đoạn sông sâu, trong sạch nhất, chứa trong chum đất mới, để trên kiệu hoa (long đình), rước về trong nhã nhạc, trống chiêng, cờ phướng. Ban lễ cung kính dâng nước lên bàn thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu, các bàn thờ phía sau là Long thần Hộ pháp, Thiên lý nhĩ, Thiên lý nhân ở hai bên, bàn thờ Tả vu thờ 4 xứ Thành hoàng, Hữu vu thờ Tiêu diện đại lực sĩ.
Tảng sáng ngày rằm, cử hành lễ rước Phật. Đoàn người khiêng kiệu, mang cờ phướng, trống mõ... xuất phát từ Ngũ bang Hội quán, đi hết các chùa: chùa Bà Trước, chùa Ông, chùa Bà Sau đến chùa Phổ Tịnh để làm lễ rước Phật, thỉnh kinh, thỉnh thầy. Thời gian nầy, nhà nào cũng thiết hương án, bày lễ vật dâng cúng ra sân, khi đoàn rước Phật đi qua, chủ nhà ra thắp hương cho kiệu hoa.
Khi khai lễ thì làm thủ tục cung nghinh chức sự, trình tự khai kinh, tụng niệm, trai đàn, dâng sớ và cúng chẩn ba ngày đêm. Trong phố, đêm nào cũng thắp đèn lồng sáng trưng. Tối ngày rằm, cử hành lễ Phóng sinh, thả chim lên trời, thả cá xuống giữa dòng sông Côn. Các đêm tiếp theo, tổ chức hát bội linh đình với nhiều vở tuồng hay của các gánh hát nổi tiếng.
Khách thập phương đến dự lễ, không phân sang hèn, quan chức hay dân thường đêu được đón tiếp, chào mời ân cần, tiếp đãi chu đáo; có nhà tạm làm chỗ nghỉ chân cho quan khách ở xa.
Xong phần lễ là phần hội Xô cỗ, Đổ giàn, là tiết mục cao trào, tạo thành ấn tượng mạnh mẽ, sâu lắng trong lòng mọi người qua cuộc so tài cao thấp, thể hiện tinh hoa, khí phách của các lò võ, các môn phái võ cổ truyền. Xưa kia, thường là cuộc so tại cao thấp giữa võ sư, vó sĩ hai làng An Vinh và An Thái.
Một cái giàn, tức khán đài bằng tre cao khoảng 10m, mỗi bề rộng chừng 4-6m, đặt giữa sân Hội quán. Trên khán đài có bày mâm cỗ cúng gồm hương đèn, hoa quả, bánh trái. Đặc biệt có một con heo cạo sạch lông, lấy sạch bộ đồ lòng, rửa trắng tinh, có vẽ rằn ri giống hình một con cọp, dân làng gọi là “Heo cọp”, phục vụ phần hội Xô cỗ, Đổ giàn.
Trưa 17 tháng 7 âm lịch, đúng giờ Mùi, khoảng 13 giờ, Ban Lễ gồm Chủ tế và các chức sắc hành lễ lên giàn chẩn tế. Sau lễ tế thần, bắt đầu Xô cỗ, Đổ giàn . Chủ tế lấy bánh trái trên mâm cỗ tung xuống; lũ trẻ vây quanh giàn, reo mừng tranh nhau lượm bánh trái để ăn, coi đây là lộc của thần ban cho. Hết phần tung bánh đến phần giành “Heo cọp”.
Dưới giàn, mọi người háo hức, hồi họp dán mắt lên khán đài. Các môn phái từ các huyện, tỉnh bạn kéo về rất đông, có môn phái lên đến trăm người, họ đứng quanh khán đài, chia nhau bố trí lực lượng đâu vào đó và ngóng chờ giây phút vị Chủ tế tuyên bố Đổ giàn.
Con “Heo cọp” vừa quăng xuống giàn thì tiếng reo hò vang dậy. Kẻ giật phướng, người phi thân, dùng đủ các thế võ lợi hại và mưu trí để giành cho được con heo; người nghi binh, mở đường, cản đường để võ sĩ vát heo thoát khỏi vòng vây của các đối thủ Có con heo phải trải qua tay năm ba võ sĩ trước khi đến tay người chiến thắng cuối cùng.
“Tiếng đồn An Thái, Bình Khê, Nhiều tay võ sĩ giỏi nghề tranh heo”. Những lò võ chiến thắng là có được món quà tinh thần vô giá, tiếng tăm nối tiếp tiếng tăm, uy tín càng thêm uy tín và tin rằng năm đó sẽ gặp nhiều phúc lộc, làm ăn phát đạt, ít bị thiên tai, bệnh tật. Tất nhiên, không thể tránh khỏi những thủ đoạn trái với tinh thần thượng võ.
Du khách đánh giá rất cao chất hùng tráng của trò chơi “Đổ giàn” mang tinh thần thượng võ cao. Nhà thơ Chế Lan Viên viết: ”Các cuộc Đổ giàn ở An Thái làm cho tôi yêu chất hùng tráng... Rồi đây các bạn cũng nên tổ chức lại trò Đổ giàn, đó chả là Olympic của ta đó sao? ”.