P
Phố cảng Nước Mặn-Vạn Gò Bồi
Nước Mặn là tên gọi một phố cảng sông nằm bên đầm Thị Nại đã bị tàn lụi, nay là thôn An Hòa, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, chuyên sống về nghề nông, nằm cách Quy Nhơn 15 km về phía bắc. Giáo sĩ Borri đã từng đến Nước Mặn vào năm 1618, cho rằng Nước Mặn là “một thành phố đàng hoàng”. Vào đầu thế kỷ XVIII, một giáo sĩ phương Tây tên là P. Poivre nhận xét trong hồi ký của mình rằng “Tại tỉnh Quy Nhơn có một thương cảng khác gọi là Nước Mặn là một thương cảng tốt, an toàn, được thương nhân lui tới nhiều, nhưng kém hơn Faifo (Hội An), lại không thuận tiện vì quá xa kinh thành...”
Theo Borri thì phố cảng Nước Mặn trải dài 5 dặm, rộng 0,5 dặm, còn theo sự khảo sát của các nhà sử học nước ta thì giới hạn khuôn viên phố cảng Nước Mặn xưa, là từ bờ Cầu Ngói đến bến Cây Đa, kéo dài đến trước mặt chùa Bà (Thiên Hậu cung) của con sông Âm Phủ. Khu phố dài khoảng 1 km, rộng ước chừng 500 mét. Khi cửa Cách Thử còn tấp nập ghe thuyền ra vào buôn bán, các nhánh sông Âm Phủ, Cây Đa còn rộng và sâu, nước mặn từ biển và đầm dâng lên đến đây, thương thuyền vào tận Cầu Ngói để buôn bán, trao đổi hàng hóa trực tiếp tại phố cảng Nước Mặn. Phố chợ thời đó họp hằng ngày, nhưng tấp nập nhất là những ngày có phiên chợ.
Đầu thế kỷ XVII, Nước Mặn là phố cảng đô hội nhất tại phủ Quy Nhơn. Tháng 7.1618, Khám lý Trần Đức Hòa đã cho xây dựng tại Nước Mặn một ngôi nhà bằng gỗ rộng rãi, khang trang để các giáo sĩ phương Tây ở, đồng thời cho xây dựng một Thánh đường bằng gỗ chỉ làm xong trong một ngày, để các giáo sĩ giảng đạo.
Thương nhân buôn bán ở Nước Mặn gồm 2 bộ phận: một bộ phận có phố, tiệm buôn bán thường xuyên tại Nước Mặn, hoặc mở đại lý, làm môi giới tổ chức bao tiêu, bao mua, hoặc bán lẻ; bộ phận thứ 2 là thương nhân các nơi khác đến mua bán trong ngày hay dài ngày. Thương nhân ở Nước Mặn, chủ yếu là người Việt và người Hoa, nhưng Hoa thương có thực lực mạnh hơn, họ sống ở Nước Mặn đông đảo, lập thành làng Minh hương.
Gò Bồi năm bên sông Âm Phủ, cách Nước Mặn 2 km về phía đông. Trước đây, ghe thuyền từ cửa Cách Thử đi thẳng lên buôn bán ở Nước Mặn. Vào cuối thế kỷ XVIII, Cách Thử bị bồi cạn, phù sa của sông Âm Phủ, sông Côn không tải ra biển, nên lắn tụ ở phía trên đầu đầm Thị Nại và ngay tại lòng sông, nhất là vùng gần cửa sông. Phù sa sông Âm Phủ cao dần lên, ghe thuyền không lên được Nước Mặn. Do yêu cầu giao lưu, buôn bán bằng đường thủy, vạn Gò Bồi ra đời tuy không thể thay vì phố cảng Nước Mặn, nhưng cũng đáp ứng được phần nào nhu cầu của thương nhân đến buôn bán ở phủ Quy Nhơn.
Vạn Gò Bồi nay thuộc thôn Tùng Giảng, xã Phước Hòa, huỵện Tuy Phước. Bến được xây dựng bằng đá cho ghe thuyền dễ bốc dỡ hàng hóa. Trên bến là chợ có nhiều tiệm buôn, quán xá của người Việt và người Hoa. Có một số tiệm buôn của người Hoa như Quảng Sanh, Hiệp Hưng, Quảng Tế Đường, Cát An, Phong Thạnh, Hòa Hưng và một số tiệm của người Ấn Độ...
Chợ Gò Bồi 5 ngày đông một phiên vào các ngày 2, 7, 12, 17, 22, 27 hảng tháng âm lịch. Nước mắm Gò Bồi xưa kia nổi tiếng nhất vùng. Dân gian truyền rằng nước mắm Gò Bồi nguyên chất để lâu năm uống vào có thể chữa bệnh ho lao và nhiều bệnh kinh niên khác.
Khi phố cảng Nước Mặn sa sút, vạn Gò Bồi hình thành như “chiếc phao” cứu vớt thương nhân, nhất là người Hoa, nên họ đã đóng góp tiền của xây dựng Hội quán Xuân Hòa, còn gọi là Chùa Ông để thờ Quan Thánh. Hội quán có treo bức liễn làm năm Quý Sửu do Hoa thương từng cư trú tại Nước Mặn hiến. Gò Bồi còn có chùa Hội Khánh do Thiền sư Dương Cơ, người Triều Châu (Trung Quốc) theo thuyền tị nạn vào Đàng Trong, thời Lê Hy Tông, niên hiệu Vĩnh Trị (1676-1680), xây dựng.
Gò Bồi cũng là quê mẹ, nơi sinh ra nhà thơ Xuân Diệu.
Phố cổ Quy Nhơn
Khu đô thị cổ Quy Nhơn xưa kia, nay là khu phố kéo dài từ đường Lê Lợi, Trần Cao Vân ở phía đông với các kiến trúc cổ là chùa Long Khánh, đình làng Chánh Thành, chợ Quy Nhơn, đền Quan Thánh (chùa Ông), kéo lên phía tây giới hạn bởi đường Phan Đình Phùng. Toàn bộ khu đô thị cổ nầy có diện tích chừng 0,5 km2, lấy đường Trần Hưng Đạo làm trục chính.
Khu đô thị cổ Quy Nhơn gồm có các kiến trúc như hội quán của người Hoa, đình làng, chùa miếu của người Việt, nhà phố, cửa hàng, cửa hiệu của thương nhân, được xây dựng từ giữa thế kỷ XIX.
Hội quán Quỳnh Phủ chiếm một diện tích khá lớn nằm giữa 4 con đường: Bạch Đằng và Trần Hưng Đạo giới hạn bắc-nam; Nguyễn Văn Bé và Mai Xuân Thưởng giới hạn đông-tây.
Quỳnh Phủ Hội quán tiêu biểu cho kiến trúc gỗ mỹ nghệ tinh vi, cầu kỳ và lộng lẫy, gồm 3 tòa nhà, mỗi tòa cách nhau bằng một cái sân rộng, thoáng. Kiến trúc của Hội quán tuy không có kèo như kiến trúc nhà rường ở đền Quan Thánh của người Việt, nhưng trông rất bề thế và vững chắc. Đao nhà theo mô típ hình thuyền của Hoa Nam; trên nóc chính diện của Hội quán có trang trí lưỡng long triều nguyệt, nổi lên giũa bầu trời xanh thắm trông rất rực rỡ và đẹp mắt.
Hội quán Triều Châu có giá trị nổi bật là tài khai thác, vận chuyển, kỹ thuật xây dựng, trang trí bằng các loại đá quý hiếm trong thiên nhiên.
Toàn bộ công trình là một kiến trúc đồ sộ bằng đá. Các tòa nhà, tiền điện, lễ đường, hậu tẩm được ghép bằng những khối đá khổng lồ thành một hệ thống cột đá vuông vắn, bóng nhẵn. Các cột cao tới 3,8m, cạnh 0,27m. Các cây trính to lớn cũng được làm bằng đá; các bức tường được ghép bằng nhiều tảng đá, thềm điện phía trước cũng được lót bằng những phiến đá dài 3,8m, rộng 33cm, dày 12cm. Thềm vào nhà hậu tẩm cũng được lát đá cỡ 2,8x0,36x0,17m. Các con kỳ lân, rồng, phụng... cũng được tiện, chạm khắc, đắp nổi bằng đá trông rất kỳ vĩ. Có một giếng đá xây năm 1850 (Đạo Quang thứ 30). Lư hương ở nhà Nghĩa tự làm năm Quang Tự thứ 18 (1892) có đường kính rộng đến 0,45m, cũng bằng đá.
Các vật liệu bằng đá có khối lượng lớn và nặng nề đều được chở từ Trung Quốc sang xây dựng ở Quy Nhơn.
Hội quán Quảng Đông vẫn giữ nguyên bản kiến trúc và vật liệu xây dựng từ cuối thế kỹ XIX, tuy nhiên không có nét đặc trưng về kỹ thuật và thẩm mỹ.
Hội quán Phúc Kiến gần như hoàn toàn mới sau lần trùng tu năm 1962, mang sắc thái kiến trúc Á Đông. Toàn bộ cỗng thành, tiền đường, hậu tẩm là khối kiến trúc hai tầng vững chắc, đồ sộ và uy nghi.
Hội quán Ngũ Bang là sự phối hợp kiến trúc Việt-Hoa. Tiền đường là tiêu bản kiến trúc nhà rường Việt Nam, nhưng giản lược từ 16 cột còn lại 4 cột cái ở giữa và 4 cột hành lang, nối với nhau bằng các vỉ kèo có chạm trỗ tinh vi. Chính điện là một ngôi nhà rường với đầy đủ các cấu kiện cột, kèo, đòn tay, xuyên, trính; phần gỗ được chạm khắc, trang trí rất tinh vi với các đề tài quen thuộc như hoa lá, chim thú...
Đền Quan Thánh xây dựng năm 1837 là điển hình kiến trúc nhà rường bằng gỗ của người Việt ở Miền Trung. Đây là một ngôi đền đồ sộ nhất, hoàn chỉnh nhất và cổ xưa nhất ở Quy Nhơn, Bình Định, là một kiệt tác về kiến trúc tín ngưỡng dân gian của người Việt.
Chùa Long Khánh được trùng tu năm Gia Long thứ 6 (1807), nay chỉ còn lại một hiện vật điển hình là Thái Bình Hồng Chung đức vào năm Ât Dậu (1805). Chùa Hàm Long là một ngôi cổ tự có phối trí tuyệt vời.
Phù Ly
Phù Ly là địa danh của một trong 3 huyện đầu tiên của phủ Hoài Nhơn lập năm 1471 (đến năm 1602 đổi thành phủ Quy Nhơn). Huyện Phù Ly tồn tại đến năm 1832, khi vua Minh Mạng thực hiện cải cách hành chánh, thì được chia thành 2 huyện Phù Mỹ nằm phía bắc sông La Tinh và huyện Phù Cát nằm phía nam sông La Tinh. Từ đây, địa danh huyện Phù Ly không còn trên bản đồ hành chánh tỉnh Bình Định, nhưng địa danh Phù Ly vẫn là tên một làng (thôn) của xã Cát Hanh, huyện Phù Cát, cũng là tên của một con sông chảy qua hai huyện Phù Mỹ và Phù Cát: sông Phù Ly, túc sông La Tinh.
Phù Ly là nơi diễn ra trận thắng oanh liệt của quân dân Phù Cát-Phù Mỹ đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm của 200 tên lính Pháp nhảy dù xuống Khánh Lộc (Cát Hanh) và An Lạc (Mỹ Hòa), phối hợp vớí cánh quân Pháp đổ bộ từ cửa Đề Gi (Cát Khánh), kéo lên hợp điểm tại Phù Ly, buộc chúng phải tháo chạy về cửa Đề Gi để rút theo đường biển, vào ngày 1/8/1948.
Phương Mai
Bán đảo Phương Mai còn gọi là bán đảo Triều Châu nay là đất của các xã Nhơn Lý, Nhơn Hải, Nhơn Hội và khu vực 9, phường Hải Cảng, thành phố Quy Nhơn.
Trước thế kỷ XVIII, Phương Mai (Triều Châu) là một hải đảo tách ra khỏi đất liền bỡi hai cửa khẩu Cách Thử (Kẻ Thử) và Thị Nại ở phía nam.
Phương Mai là một hệ thống núi non chạy men theo bờ biển, từ đỉnh núi Cót cao 193 mét ở phía nam, núi Dốc Ngựa, núi Đen cao 361 mét chạy thẳng đến núi Đơn ăn ra sát biển nằm giữa hai thôn Hưng Lương và Xương Lý. Ở Hưng Lương có Gò Son, tương truyền ngày xưa là miệng núi lửa. Ngoài khơi, về phía đông bắc có hòn Mòng, hòn Khói, phía đông nam có cù lao Hòn Khô.
Ở xã Nhơn Hội, có tìm thấy dấu vết của cư dân cổ Sa Huỳnh, tại Nhơn Hải có văn bia chữ Chăm ở hang Bà Giăng, có đền thờ Uy Minh Vương, một Hoàng thân thời Lý, là sứ giả hòa bình của Champa.
Ở xã Nhơn Lý, có giếng Tiên nằm bên Eo Gió. Dọc theo đỉnh núi còn dấu tích của bờ lũy xưa. Dưới thềm lục địa từ mũi Yến đến cù lao Hòn Khô thuộc thôn Hải Giang, có bức tường thành xây dưới biển để chặn quân địch đổ bộ, tấn công.
Thời Tây Sơn và triều Nguyễn, ở bán đảo Phương Mai, có xây dựng nhiều căn cứ quân sự để bảo vệ cửa khẩu trọng yếu là Thị Nại.
Trên bán đảo Phương Mai có nhiều đảo yến với sản phẩm yến sào có giá trị xuất khẩu cao.