Q
Quy Hoà
Quy Hòa là tên của một làng Việt cổ thành lập từ trước thế kỷ XVIII, nay thuộc phường Ghềnh Ráng, thành phố Quy Nhơn.
Quy Hòa nằm cách Gành Ráng chừng 1 km về phía nam. Năm 1929, Linh mục Maheu (1869-1930) đã tìm ra một làng quê lý tưởng nằm dưới chân dãy núi Trại Bà và núi Xuân Vân, có con suối nước ngọt Dong Đùa đổ ra biển - thung lũng Quy Hòa. Nơi đây là một vùng đất hoang sơ, biệt lập với bên ngoài, thích hợp với việc xây dựng một khu điều trị bệnh phong, một trong “tứ chứng nan y” thời bấy giờ. Linh mục đã xây dựng tại đây một trại điều trị bệnh phong đẹp nhất nước, đặt tên là Trại phong Quy Hòa. Nhà thương phong được xây dựng đơn sơ, đến năm 1932, qua một cơn bão lớn, toàn bộ nhà cửa của bệnh nhân đều bị hư hỏng. Giám đốc Nhà thương lúc bây giờ là Soeur Charle Antoine (vốn là một kiến trúc sư) và người phụ tá của bà là Soeur Ozithe đã xây dựng lại bệnh viện và nhà ở cho bệnh nhân phong.
Sau giải phóng, ngày 7.6.1976, Bộ Y tế có Quyết định số 605/BYT-QĐ giao tỉnh Nghĩa Bình (cũ) tiếp nhận, quản lý Bệnh viện Phong Quy Hòa, đổi tên thành Khu Điều trị phong Quy Hòa, theo đó, bệnh viện thực hiện nhiệm vụ tổ chức quản lý, nuôi dưỡng và điều trị người bệnh phong thuộc khu vực Liên khu V cũ. Ngày 26.8.1999, Bộ trưởng Y tế có Quyết định số 2572/1999/QĐ-BYT đổi tên Khu Điều trị phong Quy Hòa thành bệnh viện Phong và Da liễu Quy Hòa trực thuộc Bộ Y tế
Quy Nhơn
Quy Nhơn là thành phố tỉnh lỵ, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, hành chánh của tỉnh Bình Định, nam giáp huyện Sông Cầu (tỉnh Phú Yên), tây dựa hai huyện Tuy Phước và Vân Canh, bắc nằm sát 2 huyện Tuy Phước và Phù Cát, đông hướng ra biển.
Đất Quy Nhơn xưa thuộc huyện Tuy Viễn, phủ Hoài Nhơn (thành lập năm 1471, đến năm 1602 đổi thành phủ Quy Nhơn). Lúc bấy giờ, vùng đất từ Quán Chẹt (nay là nhả ba Đống Đa-Trần Hưng Đạo) xuống đến Tấn gồm các xóm Lách, Lò Vôi, Giã, Vạn, có tên là Vĩnh Khánh (thuộc tổng Thời Tú, huyện Tuy Viễn), dân gian quen gọi là Giã hay Cửa Giã. Sau đó, thôn Vĩnh Khánh được chia thành hai làng Cẩm Thượng và Chánh Thành, thuộc huyện Tuy Phước. Cuối thế kỷ XVIII, khi cửa Kẻ Thử (xã Cát Chánh, huyện Phù Cát) bị lấp cạn thì cửa Giã, tức cửa Thị Nại trở thành thương cảng sầm uất.
Theo Hiệp ước Giáp Tuất-1874, Triều đình Huế phải mở cửa Thị Nại cho Pháp được tự do vào ra. Năm 1876 cửa Thị Nại chính thức khai trươnag, người Pháp và người phương Tây được tự do vào ra buôn bán. Năm 1892, thực dân Pháp xây xong tòa Công sứ tại Quy Nhơn, một đô thị mới được hình thành bên bờ Thị Nại.
Ngày 20.10.1898, vua Thành Thái ra dụ thành lập thị xã Quy Nhơn (Le Centre urbain de Quy Nhơn) bao gồm đất của hai làng Chánh Thành và Cẩm Thượng thuộc huyện Tuy Phước có diện tích khoảng 7 km2. Làng Chánh Thành 3 mặt giáp biển và đầm, gồm xóm Tấn chuyên nghề cá và xóm Trường chuyên nghề thủ công, chế biến hải sản, đóng thuyền. (Phường Hải Cảng, một phần của phường Trần Phú, phường Lê Lợi và phường Trần Hưng Đạo ngày nay, xưa kia là đất của làng Chánh Thành). Làng Cẩm Thượng nằm về phía tây làng Chánh Thành. (Đường Trần Cao Vân hiện nay là ranh giới giữa hai làng Chánh Thành và Cẩm Thượng). Đình làng Cẩm Thượng xưa kia, nay là nhà Văn hóa thành phố Quy Nhơn (354 Trần Hưng Đạo). Làng Cẩm Thượng (nay là đất của phường Lê Hồng Phong, một phần đất của phường Lê Lợi, phường Trần Phú và phường Trần Hưng Đạo), dân cư sống bằng nghề thủ công (như dệt, rèn, làm bánh kẹo, làm giấy) và làm dịch vụ nghề cá, buôn bán. Năm 1837, tại làng nầy đã có hiệu buôn Phát Tài.
Sau 3 thập kỷ phát triển sản xuất, kinh doanh, diện mạo các làng Cẩm Thượng, Chánh Thành ngày càng trở nên sầm uất như một đô thị. Ngày 30.4.1930, Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier ra Nghị định sát nhập làng Hưng Thạnh (thuộc tổng Dương An, huyện Tuy Phước) vào thị xã Quy Nhơn và nâng cấp thị xã thành thành phố loại 3 (Commune de Quy Nhơn) Đứng đầu thành phố là viên Đốc lý (Résident maire) do Công sứ Pháp ở Bình Định kiêm nhiệm. Thành phố được chia làm 5 khu phố, gồm khu 1, khu 2 thuộc làng Chánh Thành; khu 3, khu 4 thuộc làng Cẩm Thượng và khu 5 ở phía tây là đất của làng Hưng Thạnh. Bấy giờ, Quy Nhơn có 6 đường phố lớn: Gia Long (nay là Trần Hưng Đạo), Khải Định (Lê Lợi), Maréchal Foch (Nguyễn Huệ), Jules Ferry (Phan Bội Châu), Oden d’Hall (Lê Hồng Phong), Rue de Lagume (Bạch Đằng). Trên các con đường phố đã có đèn đường tỏa sáng hai phía; tại các ngã tư thì có đèn báo hiệu.
Năm 1930, Quy Nhơn là một trong 6 thị xã ở Miền Trung (gồm Đà Lạt, Vinh-Bến Thủy, Thanh Hóa, Huế, Quy Nhơn, Phan Thiết) được nâng cấp lên đô thị loại 3; Quy Nhơn đứng ở vị trí thứ 5.
Sau Cách mạng tháng 8.1945, Quy Nhơn được đổi tên là thị xã Nguyễn Huệ, về sau đổi lại là thị xã Quy Nhơn. Trong kháng chiến chống Pháp, tháng 6.1950, các thôn Xuân Quan, Xuân Vân, Quy Hòa thuộc xã Phước Tấn, huyện Tuy Phước sát nhập vào thị xã Quy Nhơn và thị xã được đổi thành “xã đặc biệt” trực thuộc tỉnh. Đến năm 1951 lại đổi thành thị xã Quy Nhơn tồn tại cho đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp.
Dưới chế độ Mỹ - Ngụy, từ 1955-1960, Quy Nhơn vẫn là thị xã trực thuộc ngụy quyền tỉnh. Tháng 4.1961, ngụy quyền Sài Gòn chuyển đổi thị xã Quy Nhơn thành xã Quy Nhơn trực thuộc quận Tuy Phước. Xã Quy Nhơn lúc nầy có 15 ấp, diện tích 9 km2, dân số trên 91.000 người. Tháng 9.1970, Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa cho tái lập thị xã Quy Nhơn bao gồm vùng đất của 4 xã Quy Nhơn, Phước Hậu, Phước Tấn, Phước Hải và chia thành 2 quận: quận Nhơn Bình gồm 9 ấp của xã Quy Nhơn, xã Phước Tấn và xã Phước Hải (4 ấp); quận Nhơn Định gồm xã Phước Hậu (14 ấp) và 6 ấp phía tây của xã Quy Nhơn. Đến tháng 6.1971, thị xã Quy Nhơn vẫn gồm 2 quận, nhưng lại chia thành 16 khu phố: quận Nhơn Bình có 10 khu phố; quận Nhơn Định có 6 khu phố. Không kể quốc lộ IA và quốc lộ 19, thời Mỹ-ngụy, nội thị Quy Nhơn có 47 đường phố được trải nhựa khá tốt.
Sau ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước và hợp nhất hai tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi thành tỉnh Nghĩa Bình, Quy Nhơn là tỉnh lỵ của tỉnh Nghĩa Bình. Thị xã gồm 8 phường, 4 xã. Đến cuối năm 1980, tách thôn Hội Lộc của xã Nhơn Lý thành lập xã Nhơn Hội, Quy Nhơn có 8 phường, 5 xã. Năm 1981, chia xã Nhơn Thạnh (tức xã Phước Hậu cũ) thành 2 xã Nhơn Bình và Nhơn Phú, Quy Nhơn gồm 8 phường, 6 xã. Tháng 7.1986, thị xã Quy Nhơn được nâng lên thành thành phố trực thuộc tỉnh; sát nhập xã Phước Thạnh của huyện Tuy Phước vào thành phố Quy Nhơn và đổi tên thành xã Nhơn Thạnh; Quy Nhơn có 8 phường, 7 xã. Tháng 3.1987, giải thể xã Nhơn Thạnh để thành lập 2 phường lấy tên là Bùi Thị Xuân và Trần Quang Diệu, thành phố có 6 xã, 10 phường. Tháng 12.1997, thành lập phường Gành Ráng, phường Nguyễn Văn Cừ; đổi xã Nhơn Bình thành phường Nhơn Bình và xã Nhơn Phú thành phường Nhơn Phú. Năm 1998, thành lập phường Lý Thường Kiệt và phường Thị Nại.
Thành phố Quy Nhơn hiện có 16 phường: Bùi Thị Xuân, Đống Đa, Ghềnh Ráng, Hải Cảng, Lê Hồng Phong, Lê Lợi, Lý Thường Kiệt, Ngô Mây, Nguyễn Văn Cừ, Nhơn Bình, Nhơn Phú, Quang Trung, Thị Nại, Trần Hưng Đạo, Trần Phú, Trần Quang Diệu và 5 xã : Nhơn Châu, Nhơn Hải, Nhơn Hội, Nhơn Lý, Phước Mỹ.