N
Nghệ nhân dân gian
Đầu năm 2010, tỉnh Bình Định có 6 nghệ nhân được Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian: Lê Thị Đào (Bài chòi cổ, An Nhơn); Đinh Di (Sử thi Ba Na Kriêm, Vĩnh Thạnh); Nguyễn Thị Minh Đức (Phù Cát); Đinh Thị H’ Lao (hát Hơmon, Vĩnh Thạnh); Nguyễn Thị Minh Liễu (Tuy Phước), Hồ Ngọc Tùng (Tuy Phước).
Năm 2015, Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú lần thứ I - trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể cho 18 nghệ nhân Bình Định.
Nghệ sĩ hát Bội nổi tiếng
Là quê hương của nghệ thuật hát Bội, tỉnh Bình Định đã sản sinh ra nhiều nghệ sĩ hát Bội nổi tiếng, như Tư Cá, Hoàng Chinh, Long Trọng, Trương Thị Minh Đức, Võ Sĩ Thừa, Hòa Bình, Đình Bôi…, trong đó có nhiều nghệ sĩ được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân.
Nghệ sĩ Tư Cá
Tư Cá tên thật là Nguyễn Suyễn. Ông sinh năm 1919, quê thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn.
Thuở nhỏ Tư Cá rất mê hát Bội, ông được cha xin đến thọ giáo cụ Bầu Đồ ở xã Bình An, huyện Tây Sơn. Tư Cá có giọng hát tốt, say mê tập luyện nên chỉ một thời gian ngắn đã trở thành kép hát xuất sắc của gánh hát Bầu Đồ. Cụ Bầu Đồ mất, Tư Cá xin gia nhập gánh hát Bầu Chưu ở Bình Giang. Sau ông gia nhập gánh hát Thông Cừu còn có tên là Bình Lạc Ban.
Năm 1955, Tư Cá hợp tác với Hoàng Chinh, Long Trọng thành lập gánh hát Bội đi hát khắp các tỉnh Miền Trung. Từ đó ông trở thành kép hát nổi tiếng trong bộ ba Cá, Chinh, Trọng.
Ông mất năm 1988, hưởng thọ 69 tuổi.
Nghệ sĩ Hoàng Chinh
Hoàng Chinh có tên thường gọi là Bầu Chinh. Ông sinh năm 1924 tại thôn Hòa Nghi, phường Nhơn Hòa, thị xã An Nhơn.
Là con nhà khá giả nên thời Pháp thuộc ông học đến đệ tứ niên bậc cao đẳng tiểu học. Ông rất đam mê hát Bội, mong ước có ngày đứng ra sáng lập một gánh hát Bội nổi tiếng như gánh hát Cửu Vị (Phan Hiền) ở Bình Nghi, Bình Khê, gánh hát Thông Cừu (Trương Trọng Cừu) ở Phước Quang, Tuy Phước.
Năm 1955, ông hợp tác cùng Tư Cá, Long Trọng thành lập gánh hát Bội mang tên gánh Bầu Chinh. Ông là một kép hát hay nổi tiếng; vợ ông, bà Thu là một đào hát xuất sắc.
Ông mất năm 1990, hưởng thọ 66 tuổi.
Nghệ sĩ Long Trọng
Long Trọng sinh năm 1920 tại thôn Luật Chánh, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước.
Sinh ra trong một gia đình giàu có, thuở nhỏ ông rất đam mê hát Bội. Ở quê ông, nơi nào có hát Bội là ông tìm đến xem cho bằng được. Cách nói năng và điệu bộ của các nghệ sĩ hát Bội như thấm sâu vào người ông, nên từ cách đi dứng, cách ngồi ghế, đến cách xưng hô, cách chào hỏi, ông đều làm y hệt một diễn viên hát Bội. Đặc biệt, ông có cách ngồi, cách đi đứng, cách vuốt râu trịnh trọng như một ông vua, ông quan, đúng với cái tên Long Trọng của ông.
Ông là một kép hát nổi tiếng ở Miền Trung cùng với Tư Cá, Hoàng Chinh và các đào hát danh tiếng Minh Đức, Thu An...
Ông mất năm 1987, thọ 67 tuổi.
Nghệ sĩ nhân dân
Quê hương Bình Định có nhiều nghệ sĩ hát Bội được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân là Võ Sĩ Thừa, Trương Thị Minh Đức, Nguyễn Thị Hòa Bình, Đình Bôi, Đinh Quả…
Nghệ sĩ nhân dân Hòa Bình
Nghệ sĩ nhân dân Hòa Bình nguyên là Giám đốc Nhà hát tuồng Đào Tấn tiếp nối Giám đốc Võ Sĩ Thừa.
Nghệ sĩ nhân dân Đình Bôi
Nghệ sĩ nhân dân Đình Bôi là diễn viên xuất sắc của Nhà hát tuồng Đào Tấn.
Nghệ sĩ nhân dân Trương Thị Minh Đức
Trương Thị Minh Đức sinh năm 1923 tại làng Phổ Trạch, nay thuộc xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước.
Thuở nhỏ, mẹ mất sớm, cha làm thợ rèn, bà phải phụ giúp cha thổi bễ. Nhưng hễ nghe gánh hát bội Thông Cừu (Phước Quang) biểu diễn, dù xa mấy bà cũng tìm cách rủ rê bạn gái đi xem cho bằng được.
Bà đẹp gái, có chồng từ năm 17 tuổi. Hai vợ chồng bà cùng theo nghề hát bội. Ông Kỳ, chồng bà kéo màn, còn bà là đào nhất, hát hay nổi tiếng. Bà chưa có con thì chồng bà qua đời.
Cách mạng tháng 8/1945 thành công, Trương Thị Minh Đức được tuyển vào đoàn Tuồng khu V.
Năm 1955, bà cùng đoàn Tuồng tập kết ra Miền Bắc tiếp tục hoạt động nghệ thuật.
Bà tái giá, sinh hạ một cô con gái.
Năm 1983, Trương Thị Minh Đức được phong tặng danh hiệu cao quý: Nghệ sĩ nhân dân.
Nghệ sĩ nhân dân Đinh Quả
Nghệ sĩ nhân dân Dinh Quả là diễn viên xuất sắc của Nhà hát Tuồng Đào Tấn.
Nghệ sĩ nhân dânVõ Sĩ Thừa
Võ Sĩ Thừa nổi tiếng là kép hay bậc nhất, nhì trong đoàn Tuồng khu V tập kết ra Miền Bắc.
Năm 1968, Võ Sĩ Thừa cùng một số diễn viên đoàn Tuồng khu V trở về chiến trường khu V, thành lập đoàn Tuồng Giải phóng đi biểu diễn tại các vùng giải phóng của các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định.
Năm 1972, trong chuyến công diễn tại huyện Hoài Ân, Võ Sĩ Thừa và một số diễn viên đoàn Tuồng bị địch bất ngờ đổ quân vây bắt.
Trong nhà tù địch, Võ Sĩ Thừa cùng các đồng nghiệp đã nêu cao tinh thần kiên trung, giữ vững khí tiết cách mạng, không đầu hàng, khuất phục trước những sự tra tấn dã man và dụ dỗ, mua chuộc của quân thù.
Sau khi có Hiệp định Paris, Võ Sĩ Thừa và đồng đội được trao trả tự do.
Nước nhà thống nhất, Võ Sĩ Thừa được bổ nhiệm làm Giám đốc Nhà hát Tuồng Đào Tấn. Năm 1985, ông được phong tặng danh hiệu cao quý: Nghệ sĩ nhân dân.
Nghệ thuật Ca kịch Bài chòi
Nghệ thuật Ca kịch Bài chòi là sự nâng cấp từ trò chơi Đánh Bài chòi với những lời và điệu hô Bài chòi mộc mạc, nôm na, ngắn gọn, lên thành một bộ môn nghệ thuật biểu diễn có kịch bản, có tích truyện với nhiều làn điệu dân ca phong phú, văn chương chải chuốt, đưa Bài chòi từ đất lên giàn, lên sân khấu.
Từ yêu cầu mượn lời hô để nói lên tên thẻ bài nhằm hấp dẫn người tham gia trò chơi Đánh Bài chòi, các chú Hiệu đã năng động và linh họat hát lên những câu nam, khách của hát Bội với cách diễn xuất bắt chước gần như sân khấu. Từ đó, hô Bài chòi ngày càng phát triển phong phú, đa dạng hơn về nội dung và làn điệu. Từ những câu vè, câu lục bát ngắn, hô có nhạc đệm, phát triển lên thành những bài hô dài, văn chương chải chuốt, nội dung thể hiện những câu chuyện cổ như Thoại Khanh-Châu Tuấn, Phạm Công-Cúc Hoa, có nam nữ cùng tham gia thể hiện, ngày càng hấp dẫn người xem đến độ đam mê. Từ đó, trò chơi Đánh Bài chòi không còn là để được ngồi lên chòi đánh bài, mà chủ yếu là để được nghe hô và biểu diễn các làn điệu như xuân nữ, xàng xê, cổ bản, hò Quảng. Và từ các nhóm chú Hiệu hô Bài chòi trong trò chơi Đánh Bài chòi, dần tách ra thành các gánh hát Bài chòi đi sâu vào các vùng nông thôn hô hát kiếm sống, tồn tại trong một thời gian dài trước Cách mạng tháng Tám.
Thời kháng chiến chống Pháp, nhờ có đội ngũ nghệ sĩ cách mạng tham gia sáng tác và biểu diễn phục vụ nhân dân và bộ đội dưới hình thức quy mô nhỏ, nghệ thuật Dân ca kịch Bài chòi bắt đầu được nâng cao một bước mới. Tập kết ra Miền Bắc, các nghệ sĩ Bình Định và khu V xây dựng đoàn Dân ca kịch Bài chòi. Từ đấy, sản sinh ra những tác giả kịch bản, tác giả âm nhạc, đạo diễn và diễn viên tài năng như Hoàng Lê, Trần Chức, Đinh Thái Sơn, Nguyễn Kiểm, Phan Ngạn.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Đoàn Văn công Giải phóng của tỉnh đã dàn dựng được một số vở ca kịch Bài chòi ngắn, biểu diễn phục vụ nhân dân vùng giải phóng, góp phần tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia chống Mỹ, cứu nước.
Sau ngày quê hương hoàn toàn giải phóng, tháng 10.1975, Tỉnh thành lập Đoàn Văn công Nghĩa Bình trên cơ sở hợp nhất 2 Đoàn Văn công Giải phóng Bình Định và Quảng Ngãi, đến năm 1976 thì tách ra thành lập Đoàn Ca múa nhạc và Đoàn Dân ca kịch Bài chòi (nay là Đoàn Ca kịch Bài chòi) chuyên nghiệp, đi biểu diễn phục vụ nhân dân và tham gia các hội diễn sân khấu toàn quốc.
Từ đó đến nay, Đoàn Ca kịch Bài chòi đã xây dựng được nhiều vở diễn hay, đào tạo, bồi dưỡng nhiều diễn viên trẻ, tài năng, rất yêu nghề.
Nghệ thuật hát Bội
Nhân dân Bình Định xưa kia rất mê hát Bội (hát Bộ). Mỗi lần có đám hát, dù xa mấy, phải đi bộ hơn 10 cây số, họ vẫn rủ nhau đi. “Nghe trống chiến, không khiến cũng đi. Nghe trống chầu, đâm đầu mà chạy”, “Đi xem thì ngại tốn tiền, Không đi lại nhớ Lệ Siềng, Bầu Đông”,“Bầu Đông mà đóng Phụng Nghi Đình, Dù chồng có đánh thì mình cũng đi”. Nhiều người đi xem hát nhiều đến thuộc cả sự tích tuồng hát và những câu hát hay.
Thời xưa, Bình Định không có trường hát. Đám hát Bội thường được tổ chức ở sân đình, miễu, đền hay ở sân tư gia. Bạn hát được rước đến. Người tổ chức đám hát phải cất rạp, hát xong thì dỡ. Sân khấu cũng rất đơn giản. Ngoài đôi câu liễn ở trước, tấm nghi môn ở trên, bên trong chỉ treo một tấm màn vải, thường là vải thùng, che khuất hậu trường, chứ không có phông cảnh như ngày nay. Ánh sáng dùng cho đêm hát là những đĩa, bát dầu phụng, dầu rái có bấc đốt cháy. Gánh hát nào cũng có một người chuyên lo việc gánh bát, đĩa dầu đi theo và trước khi đêm hát khai diễn, phải châm lửa đốt đèn. Về sau, có trang trí phông, màn vẽ sẵn cảnh sông núi, lâu đài, hoa cỏ, đào kép mặc áo xiêm, đội mũ mão rực rỡ nên đêm hát trở nên hấp dẫn hơn.
Về thuê gánh hát và cách trả tiền thì có 2 cách: một là trả tiền cả gói theo sự thõa thuận của người thuê và ông Bầu gánh hát; hai là trả theo chất lượng đêm hát, hát hay thưởng chầu nhiều thì được tiền nhiều, hát dỡ thưởng chầu ít thì nhận tiền ít. Hầu hết các đêm hát ở Bình Định đều theo cách trả tiền thứ hai. Do đó, người thuê gánh hát phải mời người có uy tín, sành điệu nghệ thuật hát Bội, am hiểu văn chương, cách hát để cầm chầu, tức là làm giám khảo. Một đêm hát có thể mời một hay hai người cầm chầu. Người cầm chầu nếu có uy tín mà không sành điệu thì thưởng, phạt sẽ không công minh, còn nếu sành điệu mà không có uy tín thì dù thưởng phạt công minh đến mấy, đối với chủ nhà và bạn hát đều kém phần giá trị. Trước mặt người cầm chầu là chiếc trống chầu và chiếc mâm thau đựng thẻ (được quy thành tiền) hay tiền đồng để thưởng. Nếu hát hay thì đánh trống thưởng rồi ném tiền, thẻ thưởng lên sân khấu ngay, nếu hát hay vừa vừa thì chỉ thưởng trống mà thôi, còn hát sai tuồng, lỗi điệu thì gõ tang.
Người xem không quan tâm đến đồ trần thiết, cũng ít chú ý đến trang phục của bạn hát, mà bao nhiêu tai mắt đều dồn vào câu tuồng, giọng hát và điệu bộ của đào, kép. Đào, kép hay chẳng những phải hát đúng nhịp, đúng cách, điệu bộ thật nhuần nhuyễn, mà còn phải ráng lột cho hết tinh thần câu tuồng, vở tuồng, bằng giọng, bằng hơi, bằng điệu bộ thể hiện tính cách nhân vật mình đóng vai, để người xem hình dung được quang cảnh mô tả trong câu hát, trong vở tuồng. Hát hay hoặc dỡ do người xem đánh giá bằng sự vỗ tay, tiếng xì xồ và chủ yếu là bằng tiếng trống thưởng của người cầm chầu. Gặp phải người cầm chầu không sành điệu hay keo kiệt, không dám thưởng thì lập tức trên sân khấu xuất hiện ngay những vai hề châm biếm thâm thúy, đả kích tinh tế, không thể nào bắt bẻ được.
Trước khi kết thúc đêm hát, bất kỳ hát tuồng gì, đám hát nào cũng phải diễn một màn “Tôn vương“, nội dung không hề liên quan đến vở diễn, nhưng bày ra chủ yếu là để chúc tụng Triều đình, quan lại và cầu cho làng xóm, gia chủ gặp nhiều may mắn, thường với câu hát vãn “Ngũ săc tường vân khai Bắc khuyết, Nhất bôi thọ tửu chúc Nam san”,”Rày mừng hải yến, hà thanh, Nhân dân an lạc, thái bình âu ca”.
Trước Cách mạng tháng 8.1945, các gành Hát bội thường diễn các vở như Ngũ Hổ bình Tây (của cụ Tú Nhơn Ân, Nguyễn Diêu), Hộ sanh đàn, Trầm hương các, Cổ thành (của Đào Tấn), Khuê các anh hùng, Sơn Hậu, Hoàng Phi Hổ (tuồng cổ đã được Đào Tấn chỉnh sửa đôi đoạn), Lý Phụng Đình (khuyết danh), Phụng Nghi Đình (của Lê Đình Thám), Lưu Bình Dương Lễ (của cụ Tú Võ KIêm)... Sau Cách mạng tháng Tám, bên cạnh những vở tuồng cổ còn có các vở tuồng hiện đại như Chị Ngộ, Trần Bình Trọng…
Tỉnh Bình Định có nhiều gánh hát Bội nổi tiếng như gánh Bình lạc ban của ông Thông Cừu (Trương Trọng Cừu, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước) năm 1938 đã tham gia hát ngự tại Huế, được vua Bảo Đại ban khen; gánh Cửu Vị (Phan Hiền ở xã Bình Nghi, huyện Bình Khê); gành Chánh ca May, gánh Chánh ca Ghình, gánh Bầu Thơm, gánh Bang Hưng, gánh Hòa Nghi ở xã Nhơn Hòa, huyện An Nhơn. Tại Nhơn Hòa có Nhà thờ Tổ hát Bội, hằng năm đều tổ chức cúng Tổ rồi hát mừng. Bầu là ông chủ gánh hát Bội; Chánh ca, Phó ca là chức danh do quan chức cấp cao của tỉnh phong tặng người chỉ đạo nghệ thuật.
Sau ngày Cách mạng thành công, dưới chế độ mới, hát Bội Bình Định vẫn được duy trì, nhưng không phát triển mạnh như trước, chỉ có các đoàn hát Bội do Nhà nước xây dựng, không còn gánh hát tư nhân.
Trong giai đoạn đổi mới đất nước, những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, hát Bội Bình Định được khôi phục và có bước phát triển đáng khích lệ. Ngoài Nhà hát Tuồng Đào Tấn, hầu như huyện nào cũng có đoàn hát Bội nghiệp dư, một số xã có gánh hát Bội tư nhân, thường xuyên tổ chức biểu diễn phục vụ nhân dân sở tại. Nhiều gánh hát Bội tổ chức biểu diễn ở nhiều tỉnh bạn hấp dẫn rất đông khán giả. Trong các lần tham gia Liên hoan nghệ thuật hát Tuồng truyền thống toàn quốc, Nhà hát Tuồng Đào Tấn luôn đạt giải cao; các diễn viên của Nhà hát đều đoạt Huy chương Vàng, Bạc, Đồng các loại.
Nghệ thuật hát Bội Bình Định có nét đặc trưng là khi thể hiện điệu bộ múa hát, diễn viên luôn kết hợp nhuần nhuyển hai yếu tố võ thuật và cuộc sống. Yếu tố cuộc sống là linh hồn của múa hát, còn võ thuật là thể xác của múa hát. Võ Bình Định thấm thấu vào hát Bội Bình Định và trở thành một nhân tố quan trọng trong cơ cấu tổng hợp của nghệ thuật hát Bội Bình Định. Nhờ có yếu tố võ thuật mới làm đẹp (mỹ hóa) yếu tố cuộc sống, nếu không, thì cuộc sống chỉ được thể hiện ở trạng thái tự nhiên, xơ cứng. Do đó, trong các động tác như đi ngựa, hai bên giao chiến, nếu không có yếu tố võ thuật mà chỉ làm những động tác tự nhiên, thì không gian, thời gian sân khấu hát Bội không thể mở rộng đến mức tạo thẩm mỹ thị giác khiến người xem có thể hình dung một cách sinh động hình ảnh con ngựa hay trận chiến đang hiển hiện trên sân khấu.
Nhà hát Tuồng Đào Tấn
Tiền thân của Nhà hát Tuồng Đào Tấn là Đoàn Tuồng Khu V, thành lập tháng 4/1952, gồm 9 thành viên. Hai tháng sau ngày thành lập, Đoàn Tuồng khu V biển diễn ra mắt cán bộ và nhân dân tại Hà Đông (huyện Hoài Ân) vở Tam nữ đồ vương, được khán giả nhiệt liệt hoan nghênh. Qua nhiều lần biểu diễn tại các tỉnh khu V cũ, tiếng lành đồn xa, nhiều nghệ sĩ hát Bội nổi tiếng khu V lần lượt quy tụ về Đoàn Tuồng khu V với khát vọng chấn hưng nghệ thuật hát Bội phục vụ nhân dân, phục vụ kháng chiến. Để các tiết mục biểu diễn thêm phong phú, có nội dung giáo dục tư tưởng cao, Đoàn dựng vở Trưng vương khởi nghĩa, phục hồi tuồng Sơn Hậu, Trảm Trịnh ÂÂ, n, dựng các vở tuồng mới như Gương liệt nữ của Tống Phước Phổ, Đường về Vụ Quang của Hoàng Châu Ký; đặc biệt tuồng Chị Ngộ của Nguyễn Lai đã gây tiếng vang lớn ở khu V thời bấy giờ.
Năm 1954, Đoàn Tuồng khu V tập kết ra Miền Bắc, đi biểu diễn phục vụ nhân dân nhiều tỉnh. Đặc biệt, một bộ phận 17 diễn viên, nhạc công của Đoàn đã đi biểu diễn phục vụ bộ đội Phòng không, thanh niên Xung phong tại tuyến lửa khu IV ròng rã 3 tháng trời dưới bom đạn của giặc Mỹ.
Cuối năm 1966, 9 nghệ sĩ Đoàn Tuồng khu V, theo tiếng gọi của quê hương vượt Trường Sơn vào chiến trường khu V, thành lập Đoàn Tuồng đi biểu diễn phục vụ đồng bào vùng giải phóng các tỉnh khu V cũ. Khi đang trên đường về tỉnh Bình Định biểu diễn, các nghệ sĩ Đoàn Tuồng bị địch vây bắt tại Gò Loi (Hoài Ân). Suốt 7 năm trong nhà tù Mỹ-ngụy, các nghệ sĩ vẫn giữ vững tinh thần kiên trung, bất khuất, tìm cách tổ chưc biểu diễn tuồng Trần Bình Trọng.
Sau ngày quê hương hoàn toàn giải phóng, Đoàn Tuồng khu V từ Miền Bắc trở về biểu diễn phục vụ nhân dân các tỉnh khu V. Tháng 6.1976, Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa-Thể thao-Du lịch) chuyển giao Đoàn Tuồng cho tỉnh Nghĩa Bình quản lý, đổi tên thành Đoàn Tuồng Nghĩa Bình. Đoàn bổ sung thêm nhiều diễn viên tuồng từ chiến khu xuống, các diễn viên trẻ của đội Tuồng Đồng Ấu do nghệ sĩ Tư Cá đào tạo và nhiều diễn viên của lớp trung cấp Tuồng đào tạo tại Miền Bắc.
Đến năm 1978, Đoàn Tuồng Nghĩa Bình đổi thành Nhà hát Tuồng Nghĩa Bình và năm 1988 chính thức mang tên Nhà hát Tuồng Đào Tấn. Có vinh dự mang tên vị Hậu tổ nghệ thuật hát Tuồng, Nhà hát Tuồng Đào Tấn càng trân trọng, nghiêm túc kế thừa, khai thác, phục hồi và trình diễn các vở tuồng tiêu biểu do Đào Tấn sáng tác, đồng thời thực hiện các công trình nghiên cứu về Đào Tấn. Địa bàn biểu diễn của Nhà hát Tuồng không chỉ bó hẹp trong tỉnh mà mở rộng đến nhiều địa phương trong nước và nước ngoài.
Nhà thơ Bình Định
Trước cách mạng tháng 8.1945, Bình Định là nơi đã sinh ra và nuôi dưỡng nhiều nhà thơ mới nổi tiếng thời bấy giờ như Xuân Diệu và nhóm “Tứ hữu Bàn thành” gồm Yến Lan, Quách Tấn, Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên. Thời cách mạng và kháng chiến, tỉnh Bình Định có thêm nhiều nhà thơ danh tiếng như Vương Linh, Phạm Hổ …
Nhà thơ Xuân Diệu
Xuân Diệu sinh ngày 2.2.1917 tại vạn Gò Bồi xã Tùng Giản, huyện Tuy Phước là quê mẹ. Xuân Diệu là con cụ Tú tài Ngô Xuân Thọ (quê làng Trảo Nha, nay là xã Đại Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) vào Bình Định dạy Hán văn tại Trường Collège de Quy Nhơn.
Xuân Diệu học tại Collège de Quy Nhơn từ 1927-1934, sau đó theo học tại Trường Trung học Bảo hộ Hà Nội năm 1935-1936 và học Trường Trung học Khải Định Huế năm 1936-1937.
Năm 1938-1940, Xuân Diệu dạy tại Trường tư thục Thăng Long, Hà Nội.
Năm 1938, Xuân Diệu cho ra đời tập Thơ Thơ do Thế Lữ đề tựa.
Năm 1939, Xuân Diệu cho xuất bản tập truyện ngắn Phấn thông vàng.
Năm 1940, Xuân Diệu thi đậu Tham tá Thương chính, vào làm vịệc tại Sở Đoan Mỹ Tho.
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Xuân Diệu tham gia công tác văn học nghệ thuật tại tỉnh Thanh Hóa và đắc cử đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Năm 1946, với tư cách nhà báo, Xuân Diệu tháp tùng phái đoàn nước ta do cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn sang Pháp dự hội nghị Phông-ten-blô.
Từ 1946 đến 1954, Xuân Diệu công tác tại chiến khu Việt Bắc. Năm 1949, nhà thơ được kết vào Đảng Cộng sản do hai đồng chí Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Huy Tưởng giới thiệu.
Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 được ký kết, Xuân Diệu từ chiến khu trở về Hà Nội.
Thời gian tham gia xây dựng Miền Bắc, Xuân Diệu nhiều lần sang thăm Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác; năm 1958, đi dự Hội nghị các Nhà văn châu Á ở Ấn Độ; năm 1980, dự Hội nghị các Nhà văn thế giới bảo vệ hòa bình tổ chức tại Xô-phi-a (Bung-ga-ria).
Năm 1983, nhà thơ tài hoa Xuân Diệu được Viện Hàn lâm Cộng hoà Dân chủ Đức bầu làm Viện sĩ thông tấn.
Xuân Diệu qua đời năm 1985 tại Hà Nội, hưởng thọ 68 tuổi.
Những tác phẩm thơ văn nổi tiếng của Xuân Diệu có:
Về thơ: Thơ Thơ (1938), Gởi hương cho gió (1945), Ngọn quốc kỳ (1945), Hội nghị non sông (1946), Dưới sao vàng (1949), Sáng (1953), Mẹ con (1954), Ngôi sao (1955), Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau (1961), Một khối hồng (1964), Hai đợt sóng (1967), Tôi giàu đôi mắt (1970), Hồn tôi đôi cánh (1976), Thánh ca (1982).
Truyện ngắn có Phấn thông vàng (1939).
Bút ký có Trường ca (1945), Miền Nam nước Việt (1945), Việt Nam nghìn năm (1946), Việt Nam trở dạ (1948), Thăm nước Hung (1956), Triều lên (1958).
Ngoài ra Xuân Diệu còn có nhìều tác phẩm đặc sắc về lý luận, phê bình văn học.
Nhà thơ Phạm Hổ
Phạm Hổ sinh năm 1926 tại Nhơn An, thị xã An Nhơn.
Tuổi 20 đầy nhiệt huyết, Phạm Hổ hăng hái tham gia khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng 8.1945 tại Quy Nhơn. Cách mạng thành công, Phạm Hổ làm Thư ký thường trực Chi hội Văn hóa Cứu quốc Binh Định, sau đó làm biên tập viên báo Tin tức Bình Định. Thời kháng chiến chống Pháp, Phạm Hổ đã trực tiếp làm sách “Hoa kháng chiến” phục vụ thiếu niên, nhi đồng. Sáng tác đầu tay của ông cũng viết về thiếu nhi và cho thiếu nhi như “Sáng trăng kể chuyện”, “Em vẽ Bác Hồ”. Bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ thiếu nhi Phạm Hổ là bài “Chú bò tìm bạn”, viết năm 1950 bên dòng Sông Côn.
Năm 1955, Phạm Hổ tập kết ra Bắc, tiếp tục hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ và tiếp tục sáng tác thơ về thiếu nhi và cho thiếu nhi. Ông từng giữ các chức vụ Phó Tổng biên tập Tuần báo Văn nghệ, Trưởng ban Đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng văn học thiếu nhi.
Xa tỉnh nhà nhiều năm, với lòng thương nhớ quê hương tha thiết, Phạm Hổ đã có nhiều tác phẩm viết về Bình Định rất đậm đà tình cảm, như Người quê tôi, Dáng đi Bình Định (thơ); Ổ trứng gà so, Cây bánh tét của người cô, Thầy Liên (truyện). Những tác phẩm tiêu biểu của Phạm Hổ có Chú bò tìm bạn (thơ), Ngựa thần từ đâu đến (truyện), Chuyện hoa, chuyện quả (cổ tích mới), Nàng tiên nhỏ thành ốc (kịch).
Năm 2001, nhà thơ Phạm Hổ được trao Giải thưởng Nhà nước (đợt 1) vể Văn học-nghệ thuật.
Ông từ trần ngày 4.5.2007 tại Hà Nội.
Nhà thơ Yến Lan
Yến Lan, bút hiệu Xuân Khai, tên thật là Lâm Thanh Long. Ông sinh năm 1916, quê xã Nhơn Hưng, huyện An Nhơn.
Thời Pháp thuộc, Yến Lan đi học, dạy học và làm thơ. Lúc bấy giờ, ở tỉnh Bình Định có bốn nhà thơ trẻ nổi tiếng, được tôn vinh là “tứ linh” hay “tứ hữu Bàn thành”, gồm có Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Yến Lan và Chế Lan Viên.
Năm 1945, Yến Lan tham gia cướp chính quyền tại huyện An Nhơn, sau đó làm công tác thông tin-tuyên truyền tại huyện nhà.
Trong kháng chiến chống Pháp, nhà thơ Yến Lan công tác tại Hội Văn nghệ Bình Định và Hội Văn nghệ liên khu V.
Năm 1955, Yến Lan tập kết ra Miền Bắc và tiếp tục hoạt động văn nghệ.
Năm 1975, nước nhà thống nhất, nhà thơ trở về quê cũ tại vùng đất thành Bình Định xưa, tĩnh dưỡng tuổi già và tiếp tục làm thơ. Ông được bầu làm Chủ tịch danh dự Hội Văn học-Nghệ thuật tỉnh Nghĩa Bình (về sau là tỉnh Bình Định).
Nhà thơ qua đời ngày 15.8.1998, hưởng thọ 82 tuổi.
Yến Lan để lại cho đời nhiều tập thơ nổi tiếng trong đó có bài thơ Bến My Lăng rất được ca ngợi.
Nhà thơ Vương Linh
Vương Linh tên thật là Lê Công Đạo. Ông sinh năm 1918, quê làng An Định, nay thuộc phường Nhơn Bình, thành phố Quy Nhơn.
Thiếu thời, nhà thơ Vương Linh học tại Trường Collège de Quy Nhơn từ 1935-1939. Sau khi tốt nghiệp cao đẳng tiểu học (thành chung), ông theo học nghiệp vụ hành chánh. Năm 1942, ông làm Thông hai huyện Phù Mỹ.
Là một công chức thời Pháp thuộc, nhung ông rất thích và khá thành thạo quyền Anh. Ông thường đàm đạo và tập dượt về võ thuật với võ sĩ Kim Anh nổi tiếng nhất tỉnh thời bấy giờ..
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, ông hăng hái tham gia cách mạng và kháng chiến. Năm 1947 nhà thơ được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong kháng chiến chống Pháp, ông giả từ quyền Anh, chuyển sang viết văn, làm thơ.và sớm trở thành một nhà thơ có tên tuổi với bút danh Vương Linh, được bầu làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Định. Đồng thời, ông còn tích cực tham gia hội Văn nghệ liên khu V.
Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, năm 1955, ông tập kết ra Bắc tiếp tục công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam.
Năm 1966, nhà thơ Vương Linh trở về chiến trường khu V, công tác tại Ban Tuyên Huấn khu ủy V. Nhà thơ được bầu làm Chủ tịch hội Văn nghệ Giải phóng khu V.
Năm 1975, nước nhà thống nhất, nhà thơ Vương Linh ra lại Miền Bác tiếp tục công tác văn nghệ. Năm 1990, nhà thơ qua đời tại Hà Nội, hưởng tho 71 tuổi.
Nhà thơ Quách Tấn
Quách Tấn sinh năm Kỷ Dậu, 1910, tại làng Trường Định, nay thuộc xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn. Ông học Trường Collège de Quy Nhơn từ 1925 đến 1929.
Sau khi thi đậu cao đẳng tiểu học, năm 1930, Quách Tấn được tuyển dụng làm Phán sự tòa Khâm sứ Huế rồi đổi lên tòa Sứ Đồng Nai Thượng ở Đà Lạt.; năm 1935 đổi xuống tòa Sứ Nha Trang.
Cách mạng tháng 8.1945 thành công, ông tham gia kháng chiến chống Pháp; dạy học tại Trường Trung học tư thục Mai Xuân Thưởng và các trường trung học công lập An Nhơn và Bình Khê.
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, nhà thơ Quách Tấn được bố trí đi tập kết, nhưng ông xin ở lại quê nhà.
Dưới chế độ Mỹ-ngụy, từ 1954 đến 1965, ông làm việc trong các bộ máy nguỵ quyền tỉnh Khánh Hoà, tỉnh Bình Định, tỉnh Thùa Thiên; giữ chức Phó Tỉnh trưởng Bình Định.
Năm 1965, ông về hưu, đến năm 1987 thì bị mù. Ông qua đời năm 1992 tại Nha Trang.
Những tác phẩm thơ văn của Quách Tấn đã xuất bản: Một tấm lòng (1939), Mùa cổ điển (1941), Trăng mạ lầu Việt (1942), Nghìn lẻ một đêm (4 tập sách dịch, 1958), Đọng bóng chiều (1965), Mộng Ngân Sơn (1966), Nước non Bình Định (1969), Xứ trầm hương (1869), Bóng ngày qua (1971), Giọt trăng (1973), Tố như thi dịch (1973), Nhà Tây Sơn (1978), Đôi nét về Hà Mặc Tử (1988), Họ Nguyễn thôn Vân Sơn (1988).
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí sinh ngày 22.9.1912 tại Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Tổ tiên ông vốn họ Phạm, quê Thanh Hóa, sau vào định cư tại Thừa Thiên đổi thành họ Nguyễn.
Hàn Mặc Tử còn có nhiều bút danh khác như Phong Trần, Lệ Thanh, Minh Duệ Thị.
Ông theo học tại Trường Collège de Quy NJhơn từ 1928-1931. Ông học đến lớp đệ tam niên. Năm 1932, ông làm việc tại Sở Đạc đìền Quy Nhơn. Năm 1935, Hàn Mặc Tử xin thôi việc vào Sài Gòn viết báo. Ông phụ trách trang văn nghệ của các tờ báo Công Luận, Tân Thời, Trong Khuê Phòng.
Năm 1936, ông trở về Quy Nhơn rồi mắc bệnh phong. Ông điều trị tại nhà khá lâu không khỏi, cuối cùng phải vào điều trị tại Nhà thương Phong Quy Hòa.
Hàn Mặc Tử tạ thế ngày 11.11.1940, an táng trong khuôn viên nhà thương Quy Hoà, hưởng dương 28 tuổi. Năm 1957, mộ Hàn Mặc Tử được nhà thơ Quách Tấn tổ chức cải tán di dời lên đồi Gềnh Ráng.
Hàn Mặc Tử là một thi nhân Việt Nam nổi tiếng trước Cách mạng tháng 8/1945 cùng thời với Xuân Diệu, Chế Lan Viên... Ông để lại cho đời sau mấy tập thơ xuất sắc: Gái quê xuất bản năm 1936, Thơ Hàn Mặc Tử xuất bản năm 1937. Đặc biệt ông có mấy bài thơ tình rất hay như Bẻn lẻn, Đây thôn Vĩ Dạ, Mùa xuân chín.
Nhà thơ Chế Lan Viên
Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan sinh năm 1920. Ông quê Quảng Trị theo cha vào sinh sống, ăn học và trở thành thi nhân tại Bình Định, nên nhà thơ coi Bình Định là quê hương mình
Chế Lan Viên học Trường Collège de Quy Nhơn từ 1934-1938. Năm đệ tam niên, Chế Lan Viên đã cho xuất bản tập thơ Điêu tàn (1937).
Chế Lan Viên là thành viên của nhóm thơ “tứ linh” của tỉnh Bình Định, ông nhỏ tuổi nhất, Quách Tấn lớn tuổi hơn cả, tiếp đến là Hàn Mặc Tử và Yến Lan.
Cách mạng tháng 8.1945 thành công, Chế Lan Viên tham gia công tác báo chí tại khu IV (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh). Trong kháng chiến chống Pháp, nhà thơ có một thời gian hoạt động trong vùng bị chiếm Bình Trị Thiên.
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Miền Bắc, tiếp tục hoạt động văn học-nghệ thuật. Nhà thơ để lại cho đời nhiều tác phẩm thơ văn nổi tiếng.
Về thơ có Gửi các anh (1954), Ánh sáng và phù sa (1960), Hoa ngày thường, Chim báo bão (1967), Những bài thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973), Hoa trước lăng Người (1976), Hái theo mùa (1977), Hoa trên đá (1984), Ta gửi cho mình (1986).
Về văn xuôi có Vàng sao, Những ngày nổi giận, Giờ của số thành.
Về phê bình văn học có Suy nghĩ và bình luận, Bay theo đường bay dân tộc đang bay, Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân, Nghĩ cạnh dòng thơ, Nàng tiên trên mặt đất, Vào nghề (bút danh Chàng Văn).
Chế Lan Viên qua đời năm 1990 tại thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 70 tuổi.
Nhà ở
Nhà ở của cư dân Bình Định có nhiều loại. Xưa kia, đối với người Kinh, nhà ở phổ biến là nhà cặp, nhà lá mái (với những người giàu có), còn đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, nhà ở phổ biến là nhà sàn.
Nhà cặp
Nhà cặp gồm có nhà trên, nhà dưới hình chữ L, nối liền nhau bỡi nhà cầu. Nhà trên thường gồm ba gian, hai chái; nhà dưới nhỏ hơn.
Nhà cặp thì rui mè bằng tre, kèo cột hoặc bằng tre hoặc bằng gỗ. Vách thì thường đóng mầm trỉ rồi trét đất trộn rơm đạp nhuyễn. Phía trước thì đóng phên dại ở giữa và làm cửa vào ở hai bên chái. Phia sau thường trét kín; hai bên chừa vài cửa sổ nhỏ.
Nhà lá mái
Nhà lá mái lớn hơn, sang hơn nhà cặp. Cột kèo, xiên trính đều làm bằng gỗ tốt, thậm chí gỗ quý như liêm, trắc, kiền kiền, giáng hương... Những nhà giàu có, cột thường rất to, chùi láng bóng; kèo, trính, bàn khoa được chạm trổ rất tinh xảo, mỹ thuật. Vách thường được trét đất, ngoài tô vôi hoặc xây bằng đá ong hay gạch tô vôi.
Nhà lá mái thường có ba gian, hai chái; cũng có một số nhà gồm năm gian, hai chái. Phía trước, cửa bàn khoa nằm ở gian giữa là cửa chính ít khi mở. Cửa bàn khoa là một hệ thống cánh cửa có thể tháo lắp dễ dàng. Trước cửa bàn khoa có hè rất rộng, gọi là hàng ba. Có nhà làm thêm một lớp cỗng hoặc phên dại ở phía trước hàng ba cho được an toàn.
Lá mái tức là trần nhà (plafond), nhưng không đóng bằng ván, trét bằng vôi mà đắp bằng đất. Cách trét lá mái như sau: Đòn tay ở phía trong nhà gác ngang, trên đòn tay có một lớp ván lát dọc hoặc một lớp vỏ cây hay tre ngâm đập dập, trải dài theo chiều dọc, xiên xiên theo đường kèo; bên trên đắp một lớp đất sét nhào rơm, thật dày. Mái nhà lợp bằng tranh nằm chồng lên trên lá mái. Người ta dùng trụ chống để làm cho mái nhà và lá mái cách nhau một khoảng trống nhất định: dưới chân cách nhau năm ba tấc mộc, trên nóc cách nhau khoảng gần một thước mộc (thước ta).
Làm nhà lá mái là để phòng lửa cháy ở bên trong nhà và để mùa nắng khí nóng không vào, mùa đông khí lạnh không thấm. Thành thử, nằm trong nhà lá mái, mùa nóng mát, mùa đông ấm, nhưng mùa nào trong nhà cũng đều thiếu ánh sáng, không thể đọc sách hay viết lách gì.
Nhà lá mái của người Bình Định thường xoay mặt về hướng đông, đông nam hay hướng nam, ít xoay theo hướng khác.
Về kiểu cách, thì nhà lá mái Bình Định có mấy loại:
Nhà chữ công thường là thuộc về những người có địa vị, có khoa bảng;
Nhà chữ môn là nhà của những gia đình giàu có, có địa vị trong làng xã, như lý hương;
Nhà chữ môn thiếu, hình thức như nhà chữ môn, nhưng không có nhà phía tây mà thay vào đó là chuồng trâu. Kiểu nhà nầy là nhà của phú nông.
Thời phong kiến, gia đình nào, dù giàu có đến đâu, nhưng nếu không có địa vị trong xã hội, thì khi cất nhà phải xây thấp hơn 4 tấc ta (khoảng 4cm) so với nhà của những người có địa vị, khoa bảng.
Trong cơ cấu nhà lá mái, Nhà chính (nhà giữa) bao giờ cũng cao hơn nhà đông và nhà tây. Nhà chính là nơi thở phụng tổ tiên, ông bà nên được xây cất, bài trí rất trang nghiêm; chỉ mở cửa vào dịp tết, những ngày cúng giỗ, tế tự, cưới hỏi, tang lễ và tiếp thượng khách. Nhà tây (chỉ có đối với những người có địa vị trong làng xã) là tượng trưng cho văn hóa gia đình, là nơi tiếp đón bạn bè, khách văn chương, hoặc dùng làm lớp học cho con cháu trong gia đình. Nhà đông dành cho sinh hoạt gia đình. Từ nhà chính xuống nhà đông có nhà cầu thường dùng làm nơi ở của gia chủ.
Trong nhà lá mái thường có một nhà chứa lúa gọi là nhà lẫm có cấu trúc như một gác gỗ có 4 cột. Nhà lẫm nằm trong một ngăn thuộc nhà giữa, có thể chứa tới 6 tấn lúa. Nhà lẫm chỉ trổ một cửa rất nhỏ vừa đủ cho một người chui lọt vào, quen gọi là cửa tò vò. Dưới nhà lẫm là buồng, nơi đây được cấu tạo chắc chắn, chung quanh, ngoài vách che kín, còn có một lớp phên tre để đề phòng trộm cắp. Trong buồng có một cái rương lớn gọi là rương xe, có 4 bánh xe nên có thể di chuyển được. Tất cả tài sản quý của gia chủ đều đựng trong rương nầy. Bên trên rương dùng làm giường ngủ cho gia chủ.
Nhà lá mái luôn có giếng nước ở gần nhà bếp và có bể lọc nước phèn, nhưng không bao giờ có nhà tiêu (nhà vệ sinh).
Nhà ở xưa kia của người Bình Định, nhà cặp cũng như nhà lá mái, thường có sân ở phía trước, có vườn ở xung quanh, chuối trồng vườn sau, cau trồng vườn trước; xung quanh khuôn viên có hàng rào; hàng rào phía trước thường trồng duối hay dâm bụt được chăm sóc, cắt tỉa mỹ thuật. Ngõ ra vào trổ trước ngôi nhà, nhưng không được nằm giữa, nhìn thẳng vào giữa nhà, mà phải né sang một bên.
Cổng ngõ nhà lá mái hoặc xây bằng gạch, bằng gỗ có mái che hay bằng cây xanh. Nếu bằng cây xanh, người ta thường trồng hai cây duối cách nhau khoảng 1,5 - 2,5 mét, cao quá đầu người độ 4-5 cm; chăm sóc, dưỡng nuôi, cắt tỉa, uốn nặn cho ngọn hai cây duối họp thành mái che; giữa hai cây duối có hai cánh cỗng bằng gỗ. Cũng có nhà dùng cây hoa giấy thay vì cây duối. Phía trong cỗng có bình phong nên ta không thể đi thẳng vào nhà, mà phải theo con đường nhỏ dọc hàng rào. Bình phong thường làm bằng cây chè núi cao chừng 1,8 mét.
Bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nay ở Bình Định chỉ còn sót lại vài ngôi nhà lá mái ở Hoài Ân, An Nhơn.
Nhạc võ Tây Sơn
Tương truyền, Nhạc võ Tây Sơn xuất hiện từ thời ba anh em nhà Tây Sơn mới khởi binh. Nguyễn Huệ Quang Trung sử dụng Nhạc võ để cổ động quân sĩ trong chiến đấu và hành lễ khi mở hội tế cáo trời đất. Nhạc võ Tây Sơn dùng 12 trống theo thập nhị địa chỉ. Trống có kích cỡ to nhỏ khác nhau để tạo âm thanh khác nhau theo thang bậc của nhạc. Nhạc võ Tây Sơn chia làm 4 hồi chính: Hội quân, Hành quân, Công thành, Khải hoàn.
Người khỏe và giỏi võ thuật có thể đánh Nhạc võ với 36 trống, 45 trống. Tiết tấu bài Nhạc võ khi khoan thai, khi dõng dạc, khi dồn dập, khẩn trương; đôi khi có dấu lặng để rồi ào ạt dâng lên như triều dâng, sóng vỗ. Tùy theo từng hồi mà nhạc tấu lên, thể hiện khí thế quân sĩ hành quân khẩn trương, tấn công địch thần tốc.Chẳng cần phải sành âm nhạc, người nghe có thể dễ dàng nhận ra tiếng gươm khua, ngựa hí, tiếng binh khí va chạm, hòa lẫn tiếng quân reo, súng nổ, voi gầm.
Đôi tay biểu diễn của người nghệ sĩ trông rất uyển chuyển. Cặp dùi trống trong đôi tay tài hoa được sử dụng cả phần gốc, phần ngọn, khi nện vào mặt trống, lúc gõ vào tang trống như múa để tạo nên những hợp âm phức tạp. Khi kết thúc bài Nhạc võ, người nghệ sĩ phải đánh đủ tiếng trên các mặt trống để đồng thời hòa âm trong những cung bậc trầm bổng.
Khi biểu diễn Nhạc võ Tây Sơn, người nghệ sĩ không chỉ sử dụng đôi tay uyển chuyển như điệu luân vũ trên 12 mặt trống đủ kích cỡ, mà đôi chân cũng di chuyển liên tục. Mắt phải tập trung vào mặt trống, nhưng gương mặt phải thể hiện nét tươi vui, thân thiện, mến khách.
Cuối thế kỷ XX, người biểu diễn Nhạc võ Tây Sơn nổi tiếng trong tỉnh , trong nước là cố nghệ sĩ Văn Bá Anh (đã từng nổi tiếng khi biểu diễn Nhạc võ Tây Sơn tại Liên Xô), là con cố nghệ sĩ Văn Bá Hùng, quê xã Mỹ Chánh, huyện Phù Mỹ. Hiện nay, người đánh được Nhạc võ Tây Sơn 36, 45 trống là võ sư Đinh Văn Tuấn (đã ngoài 70 tuổi, nhưng không còn ở đất Bình Định). Tại Bình Định, đánh được Nhạc võ Tây Sơn 12 trống chỉ còn vài người, trong đó có nữ võ sĩ Nguyễn Thị Thuận, quê làng Kiên Mỹ (cùng quê anh em nhà Tây Sơn) đang cùng đội Nhạc võ Bảo tàng Quang Trung biểu diên phục vụ du khách.
Núi non
Núi non Bình Định trùng trùng, điệp địệp, chạy theo hướng bắc nam tạo thành ranh giới tự nhiên giữa hai vùng địa lý Tây Nguyên và miền núi Bình Định. Các dãy núi có độ cao trên 1.000 mét so với mặt nước biển đều tập trung ở phía bắc và phía nam tỉnh.
Dãy Thạch Tân-Bình Đê, ranh giới giữa Bình Định, Quảng Ngãi
Trường Sơn chạy từ bắc vào nam đến cuối Quảng Ngãi đầu Bình Định thì tách ra một nhánh lớn chạy từ tây xuống đông, quanh co, khúc khủy, chất ngất, hiên ngang, khi gần đến biển thì núi quay vào nam cho đến cửa Tam Quan. Nhánh nầy là dãy Thạch Tân, tục gọi là Bến Đá Đây là ranh giới thiên nhiên giữa Quảng Ngãi và Bình Định. Đèo Bình Đê mở lối giao thông giữa hai tỉnh. Đèo Bình Đê trước kia gọi là đèo Thạch Tân, đèo Bến Đá, đến năm 1822, vua Minh Mạng đổi tên trạm Thạch Tân thành trạm Bình Đê, từ đó có tên đèo Bình Đê.
Dãy An Lão-Hương Sơn
Tiếp theo dãy Thạch Tân là dãy An Lão chạy từ An Lão xuống Hoài Nhơn, nửa chừng, núi phục xuống thành gò nổng, đồng bằng, đến cửa An Dũ (Hoài Nhơn) thì đột khởi thành núi Hương Sơn Gọi là Hương Sơn vì xưa kia núi có nhiều cây dáng hương, chính quyền nhà Nguyễn cho chặt dáng hương làm kho tích trử thóc lúa và tiền thuế, nên núi còn có tên là núi Kho. Trong dãy Hương Sơn có nhiều ngọn núi rất cao, khí thế oai phong, xung quanh có nhiều ngọn núi nhỏ vây bọc. Trong dãy An Lão có nhiều ngọn núi cao trên 1.000 mét nằm ở xã An Toàn. Giữa các dãy núi có nhiều thung lũng bằng phẳng, khá rộng, có cư dân sinh sống, canh tác .
Dãy Kim Sơn có hòn Tổng Dinh lịch sử
Nằm ở phía nam ngạn sông Lại, song song với dãy An Lão là dãy Kim Sơn. Gọi là Kim Sơn, vì vùng núi nầy có vàng. Truyền rằng, thời Hậu Lê đã dùng vàng ở Kim Sơn để đúc người vàng cống hiến Trung Quốc. Thế núi dãy Kim Sơn rất hiểm trở, nổi danh là ngọn Tổng Dinh là nơi trong phong trào Cần Vương, Tăng Bạt Hổ đã đóng tổng hành dinh trấn giữ mặt bắc.
Dãy Bích Kê và đèo Phủ Cũ
Dãy Kim Sơn khi xuống đến Hoài Nhơn thì chia làm hai nhánh: một nhánh chạy theo tả ngạn sông Lại, một nhánh chạy vào Phù Mỹ. Dãy Hoài Nhơn có ngọn Bích Kê mặt bắc soi dòng sông Lại, mặt đông ngắm biển đông, mặt nam nhìn cánh đồng Phù Mỹ và đầm Trà Ổ. Trong dãy Bích Kê có nhiều ngọn núi cao, phía nam có Chớp Chài, phía bắc có Hòn Cao, đứng song song nhau. Phía bắc hòn Cao, nằm sát biển có ngọn Hóc Mít. Giữa Hòn Cao và Hóc Mít có đường đèo nối liền Kim Giao ở phía bắc và Lộ Diêu ở phía nam là hai vùng đất trù phú. Sát biển còn có một đèo chạy từ Lộ Diêu ra Diêu Quan gọi là Đường Gành. Trên non, dưới biển, phong cảnh thật thanh kỳ. Nơi gành phía đông có một kẽ đá rộng. Đứng trên đèo ngó xuống thấy phía bắc, nơi vách kẽ có một người đá cưỡi ngựa đá đang phi trông sống động như người ngựa thật, có thể coi đâylà một kỳ quan. Phía nam Lộ Diêu còn có một đèo thứ ba nữa mở lối chạy vào Phú Thứ, xã Mỹ Đức, huyện Phù Mỹ. Địa thế núi Bích Kê rât hiểm yếu. Tại nơi đây, năm Quý Sửu-1773, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh tan đạo quân chúa Nguyễn do Tôn Thất Dương cầm đầu.
Giữa dãy Bích Kê và vùng Lại Khánh có đèo Phủ Cũ nằm trên quốc lộ IA. Gọi là Phủ Cũ vì xưa kia đây là nơi đóng lỵ sở của phủ Hoài Nhơn. Dưới chân đèo Phủ Cũ về phía nam có dốc Tam Tượng; vùng xung quanh xưa kia nổi tiếng về chè. Nhánh núi Phù Mỹ, từ đèo Phủ Cũ chạy xiêng xiêng vào đông nam đến địa phận huyện Phù Cát. Trong “Nước non Bình Định”, Quách Tấn miêu tả: “Đứng ngoài biển trông vào, ta thấy nhánh Phù Mỹ hợp với nhánh Hoài Nhơn tạo thành một ngôi nhà chữ môn vĩ đại có sân là cánh đồng Phù Mỹ mênh mông, có hồ nuôi cá là đầm Trà Ổ lai láng.”
Dãy Lạc Phụng ở Phù Mỹ
Trong nhánh núi Phù Mỹ có nhiều ngọn cao nổi tiếng. Ngọn Đầu Tượng (Tượng Đầu Sơn) nằm gần dốc Tam Tượng, chung quanh núi non la liệt, cảnh trí hùng dũng. Phía nam núi Đầu Tượng có ngọn Chân Chàng Sơn, còn có tên là Phan Sơn, tục gọi là núi Cột Cờ. Trông núi giống như cây chàng phan (cây phướn của nhà chùa) Phía tây bắc núi Cột Cờ có núi Màn Lăng, nổi tiếng về cọp nên còn có tên là Hổ Sơn, làm ranh giới giữa Hoài Ân và Phù Mỹ; đèo Màn Lăng mở lối giao thông giữ hai huyện. Đèo Màn Lăng dốc và dài chạy từ Trung Hội (Phù Mỹ) dến Thạch Khê (Hoài Ân). Dưới chân đèo về phía Thạch Khê có một ngôi chùa cổ. Từ Màn Lăng trở vào có nhiều ngọn núi cao hiểm trở, nối tiếp nhau không dứt.
Phía đông quốc lộ có hòn Lạc Phụng, còn có tên là Kê Khê Sơn, nằm đối trí với dãy Bích Kê. Dãy Lạc Phụng có nhiều ngọn núi khá cao như hòn Xuân Kiển, hòn Tháp Tre, hòn Núi Miếu. Vùng núi phía tây nối liền dãy núi phía đông bỡi đèo Nhông, tên chữ là Hải Lương. Đèo nằm trên quốc lộ IA, dài khoảng 9 cây số; hai đầu có hai dốc: dốc Mù U ở phía bắc, dốc Me ở phía nam. Phía đông đèo Nhông có đèo Ô Phi chạy từ Phú Nhiêu đến Chánh Trực (Mỹ Thọ) mở đường giao thông giữa vùng tây và đông quốc lộ.
Núi Bà Phù Cát
Phía nam dãy Kim Sơn là dãy Vĩnh Thạnh, núi non chồng chất, cao vút. Đèo Giốc Đót mở lối giao thông giữa hai miền Kim Sơn và Vĩnh Thạnh. Trong dãy Vĩnh Thạnh có nhiều ngọn cao gần 1.000 mét như Nong Bong, Bong Bóng... Dãy Vĩnh Thạnh chạy thẳng xuống Phù Cát, nửa chừng thì sơn mạch chạy ngầm dưới đất, đến gần biển thì đột khởi thành núi Bà.
Núi Bà, tên chữ là Bà Sơn, lại có tên là Bô Chính Đại Sơn. Núi Bà là một quần sơn như Bích Kê, Lạc Phụng. Trong dãy núi Bà có nhiều ngọn cao chất ngất như hòn Hèo ở phía đông nam, hòn Hang Rái ở phía đông bắc, hòn Chuông ở phía đông, nhưng cao hơn hết, đặc sắc hơn hết là hòn Chuông (gần 900 mét), còn gọi là hòn Chung vì núi trông giống như hình một quả chuông úp sấp. Nhân dân địa phương gọi hòn Chuông là hòn Bà. Trên hòn Chuông có một khoảnh đất bằng gọi là Ba Sân. Trong dãy núi Bà có Đá Vọng Phu, sự tích nửa hư, nửa thực; có chùa Linh Phong (chùa Ông Núi), phong cảnh nên thơ, sự tích huyền thoại, có hang Chàng Lía dài độ 20 cây số, ăn thông ra biển. Tuy dãy núi Bà cao và nối tiếp nhau, nhưng bốn mặt đều có khe, có suối, giũa núi có thung lũng, trồng trỉa rất tốt nên nhân dân dịa phương đã lên đây mở đất, lập làng như làng Chánh Hùng. Núi non hiểm trở, nhưng nhờ có đèo Nhỏ chạy ra phía bắc, đèo Tố Mộ, còn gọi là Tó Mọ hay đèo Lớn chạy vào phía nam và đèo Đá Giăng (có nhiều đá dăm lởm chởm) nên việc giao thông không trở ngại. Phía ngoài đèo Đá Giăng, từ Chánh Oai, Tân Thắng trở ra đến Chánh Lợi, cát nổi thành truông, nhiều chỗ vun lại thành gò, đi lại rất bất tiện, nhất là vào mùa nắng. Trong dân gian có câu:”Anh về em cũng muốn theo, Sợ truông cát nóng, sợ đèo đá dăm..” Ngày nay, với con đường rải nhựa chạy dọc ven biển từ khu Kinh tế Nhơn Hội, bán đảo Phương Mai ra đến Tam Quan thì khi đi qua các xã ven biển Phù Cát, nhân dân không còn ngại cảnh “ba đèo, bốn động”.
Dãy Triều Châu và bán đảo Phương Mai
Dãy Triều Châu nằm ở phía nam thuộc sơn hệ Núi Bà là một vùng cát trắng vun cao như núi, thỉnh thoảng nhô lên những ngọn núi đá từ Cách Thử chạy vào nam tạo thành một bán đảo nằm phía tây biển đông và đông bắc đầm Thị Nại. Bán đão dài khoảng 20 cây số, chỗ hẹp nhất rộng 2 cây số, chỗ rộng nhất hơn 5 cây số. Từ Cách Thử trở vào khoảng 8 cây số, toàn vùng cát trắng vun thành động, thành gò mênh mông, bát ngát, cổ nhân gọi là Trường Châu Lãnh (núi Bãi Dài) hay Trường Chu Chủy (mũi Bãi Dài). Qua khỏi Trường Châu đến Hưng Lương sát mé biển đông, nổi lên một ngọn núi thấp (100 mét) gọi là Đơn Cương, dưới chân khỏa cát. Kế đó có một vùng núi đá đen khá cao (hơn 300 mét), nằm biệt lập giữa vùng cát trắng. Đó là hòn Hắc Thạch Sơn, tục gọi là hòn Đá Đen hay hòn Đen. Phía trong hòn Đen, dọc theo mé biển và nổi lên giữa cồn cát là hòn Giốc Ngựa (gần 170 mét), tên chữ là Mã Cảnh Sơn (núi Cổ Ngựa), hình núi giống như yên ngựa. Tiếp theo Giốc Ngựa là Eo Vượt (tên chữ: Yêu Việt), rộng chừng nửa cây số, dài gần hai cây số có hình bán nguyệt. Đầm Thị Nại ăn sâu vào thành một vũng khá rộng nằm ôm lấy chân eo, tục gọi là sòng tát Khổng Lồ. Qua khỏi Eo Vượt thì đến Phương Mai.
Phương Mai là một quần sơn có nhiều ngọn cao từ 100 mét đến hơn 300 mét cùng đứng trên một căn đế. Có các hòn Chớp Vung, hòn Mai, hòn Cắt Cu, hòn Điệp Chữ (bãi Điệp). Trên núi không có cây to nên khe suối thường bị khô nước. Ngoài những ngọn núi trên, Phương Mai còn có hai mũi đá nhọn chạy thẳng ra biển: một ở phía đông nam trông như mũi mác có chim yến làm tổ nơi gành, gọi là mũi Mác hay mũi Yến; một ở tây nam, hình giống chiếc nanh cọp, tục gọi là gành Hổ, sách gọi là Hổ Ky. Vùng núi Phương Mai là điểm cuối cùng của dãy núi Triều Châu và là bình phong của cửa Thị Nại.
Dãy Tây Sơn; đèo An Khê, ranh giới giữa Bình Định-Gia Lai
Một nhánh núi từ dãy Trường Sơn chạy xuống Vĩnh Thạnh và Tây Sơn, nối tiếp nhau thành một bừc trường lũy có nhiều lớp lồng vào nhau làm ranh giới giữa Bình Định và Gia Lai. Đó là dãy Tây Sơn, còn có tên là Trụ Lãnh và Phong Lãnh, địa thế rất hiểm yếu. Thượng lưu sông Côn chạy lồng vào núi, dãy Tây Sơn bị chia đôi nên địa thế càng thêm hiểm trở, phong cảnh càng thêm đa dạng. Trong dãy, có nhiều ngọn cao vút, đồ sộ. Hòn Ngăn (cao gần 790 mét) dính liền hòn Bong Bóng của Vĩnh Thạnh. Núi có nhiều cây cối rậm rạp, bốn mặt có khe suối bao bọc. Phia đông hòn Ngăn có hai ngọn núi cao chất ngất đứng song song nhau là hòn Vỏ Cá (734 mét) ở phía bắc và hòn Da Két ở phía nam. Phía tây nam hòn Da Két và nằm liền với hòn Ngăn ở phía bắc là hòn Nước Đỏ (gần 570 mét). Bốn ngọn núi: hòn Ngăn, Nước Đỏ, Vỏ Cá và Da Két nằm chung trên một căn đế, cách chia nhau bỡi những dòng suối chảy dưới chân núi. Trên hòn Ngăn và hòn Nước Đỏ có đồng bào các dân tộc ít người sinh sống. Tiếp theo hòn Nước Đỏ là hòn Bạc Má (570 mét) cũng là một kỳ sơn. Trên đỉnh hòn Bạc Má nổi lên một vùng đá trắng như cái gò má khổng lồ. Giữa hòn Nước Đỏ và hòn Bạc Má có đèo Bồ Bồ. Từ chân đèo Bồ Bồ ở phía huyện Tây Sơn leo lên một đoạn, về phía tay phải có một vùng đất rộng gọi là Ba Gò hay Vùng Lăng, xưa kia không ai dám vào vì cho rằng rất thiêng. Phía đông hòn Bạc Má và đông nam Ba Gò có một cánh đồng rộng mênh mông gọi là Đồng Quan (Thuận Ninh), xưa kia là hậu cứ của nghĩa quân Cần Vương. Tại đây, có kho lương thực và trại lính nên gọi là Bắc Trại, và Nam Trại ở phía Đồng Vụ. Giữa Bắc Trại và Nam Trại có một cái truông gọi là truông Xe, xưa kia xe chở lương thực của nghĩa quân Cần Vương qua lại ở truông nầy. Vùng Tiên Thuận có vài ngọn núi thấp, nhỏ, nổi danh có hòn Cấm ở Tiên Bình có nhiều danh mộc, hòn Kho ở Tiên An xưa kia có kho của nghĩa quân Cần Vưong. Dưới chân hòn Kho có dòng suối Từ Bi phát nguyên từ vùng đèo Bồ Bồ ở phía bắc, rồi chay ra sông Hà Giao (còn gọi là Hà Riêu), một ngọn nguồn của sông Côn. Phong cảnh vùng nầy rất ngoạn mục.
Từ Tiên Thuận trở xuống dọc theo sông Côn đến Hữu Giang, Phú Lạc, núi vẫn nối tiếp nhau tầng tầng, lớp lớp, nổi danh nhất là hòn Trưng Sơn, còn gọi là hòn Sung hay hòn Sưng, lại có tên chữ là Độc Xỉ Sơn hay Độc Nhĩ Sơn. Đây là quê hương của Tây Sơn tam kiệt và anh hùng Mai Xuân Thưởng. Trên hòn Sung có một vùng đá hình chữ nhật, bằng phẳng, một bên có hai tảng đá vuông vức chồng lên nhau, dân gian bảo đó là “Mả mẹ Chàng Lía”. Phía bắc hòn Sung có hòn Đá Dâu, đá chồng chất, lớp dựng lên, lớp giăng ra, rất khó leo lên, nhưng đỉnh núi thì bằng phẳng, rộng và dài như một quan lộ. Có một lối đi từ chân núi lên đỉnh núi qua đèo Bồ Bồ theo đường tắt ra vùng Kim Sơn (Hoài Ân). Nghĩa quân Cần Vương đã dùng con đường nầy để liên lạc bắc nam. Trên núi Đá Dâu, phía sau lưng hòn Sung có ngọn suối gọi là Suối Đá, khô nước quanh năm, lòng suối ngổn ngang đá là đá muôn hình, muôn vẻ trông rất đẹp. Nơi đây cũng là mật khu của phong trào Cần Vương.
Bên tả ngạn sông Côn, núi non trùng điệp, lớp chạy lên An Khê, lớp chạy thẳng vào biên giới Phú Yên, lớp chạy xuống theo hướng đông nam. Đèo An Khê mở lối giao thông giữa Bình Định và Tây Nguyên. Tên An Khê được dùng từ thời Pháp thuộc, còn xưa kia thì gọi là đèo Vĩnh Viễn. Đèo cao 740 mét so với mặt nước niển và dài hơn 10 cây số, đường đèo rất hiểm trở. Xưa kia, khi chưa có quốc lộ 19, đường lên đèo có nhiều đoạn dốc ngược, đá lởm chởm, có đoạn khách bộ hành phải chàng hãng hai chân đi từng bước cho khỏi ngã, nơi nầy gọi là giốc Chàng Hãng. Dước dốc Chàng Hãng có nghẹo Cây Khế. Cách nghẹo Cây Khế một quảng có hai cây cổ thụ là cây Ké và cây Cầy (nay chỉ còn cây Cầy) là những điểm dừng chân nghỉ mát của khách lên đèo. Trên đỉnh đèo có đồn Thượng An do người Pháp xây. Thời Tây Sơn, đèo An Khê là con đường lên xuống của nghĩa quân. Thời kháng chiến chống Pháp, đèo An Khê là mồ chôn binh đoàn cơ động số 100 của thực dân Pháp.
Vùng đèo An Khê có núi Hiển Hách (tục gọi là Hảnh Hót; Đại Nam nhất thông chí viết là Hảnh Hốt) là một địa danh nổi tiếng về truyền thuyết Nguyễn Nhạc thuần phục bầy ngựa Trời. Phía đông đèo An Khê, vùng Tây Sơn Trung (từ chân đèo đến Hữu Giang, Tả Giang) có hòn Ông Bình rất nổi danh. Hòn Ông Bình nằm phía tây thôn Thượng Giang, cao gần 800 mét, trông rất kỳ vĩ, bí hiểm. Triền phía bắc cò đường đèo đi từ Đồng Hào đến Trạm Gò, Cửu An, gọi là đèo Vạn Tuế. Triền phía nam có con đường mòn chạy theo hướng đông nam đến đèo An Khê. Đối xứng với hòn Ông Bình, nằm về hướng đông nam là hòn Ông Nhạc, cao, rậm và hiểm trở không kém hòn Ông Bình. Từ hòn Ông Nhạc, núi chạy lớp thì vào thẳng phía nam, lớp thì chạy xiêng xiêng theo hướng đông nam. Trong dãy đông nam nổi tiếng có hòn Tâm Phúc (hòn Bà Phù), giống như hình chiếc nón lá để úp. Tên gọi là hòn Tâm Phúc là do Nguyễn Nhạc đặt sau đêm bày tiệc đãi quân sĩ tại thung lũng dưới chân núi Bà Phù. Thung lũng nầy được đặt tên là Hóc Yến. Trước khi khởi binh, năm Tân Mão-1771, nghĩa quân Tây Sơn đóng ở hòn Ông Nhạc dồn qua hòn Ông Bình rồi kéo đến đèo An Khê làm lễ tế cờ, gần nơi cây Cầy và cây Ké. Từ hòn Ông Bình đến hòn Đông Phong (còn gọi là hòn Lãnh Lươnag, vì đây là nơi Nguyễn Nhạc cho binh sĩ nghỉ để lãnh lương), giáp địa phận Trinh Tường có một hòn núi ngang gọi là Hoành Sơn. Núi Ông Bình ngó ngay xuống Hoành Sơn. Chân hòn Hoành Sơn có suối Tre. Truyền rằng mộ của Hồ Phi Phúc, thân sinh của tam kiệt Tây Sơn, chôn trong dãy Hoành Sơn. Nằm sát chân hòn Hoành Sơn có hai hòn núi nhỏ đứng song song là hòn Một, hình thù giống như quả chuông nên còn gọi là Chung Sơn, được xem là núi Chúa và hòn Giải giống như cái trống nên gọi là Cổ Sơn. Hòn Giải còn có tên là Ấn Sơn, vì nơi đây Nguyễn Nhạc đã tìm được ấn kiếm do “trời cho”.
Từ Phú Phong trở xuống, núi dồn hẳn vào nam. Vùng núi Phú Phong là chiến khu của Mai Xuân Thưởng. Cơ quan chỉ huy đầu não đóng tại Lộc Đỗng (Đồng Hươu), còn cơ quan bí mật thì đóng tại Linh Đỗng (Đồng Le). Mật khu Linh Đỗng do Thống binh Nguyễn Hoá trấn giữ nên còn gọi là hang Thống Nguyễn. Linh Đỗng ở phía tâyLộc Đỗng, cách Hầm Hô chừng 4-5 cây số. Đường vào khúc khủy, quanh co, khó đi. Linh Đỗng còn có tên là Linh Phong Động, gồm hai hang, một trước, một sau, ăn sâu vào núi. Hang trước không rộng lắm, chứa được vài chục người; phía trước hang có một ngọn núi dựng đứng như bức bình phong, phía sau hang có suối chảy quanh co. Qua khỏi suối đến hang sau. Hang nầy rộng gấp 7-8 lần hang trước. Miệng hang rộng độ 2 mét, cao hơn 3 mét. Trước cửa hang, cây cối mọc um tùm che kín cửa hang. Ánh mặt trời chiếu qua các kẽ lá tỏa ánh sáng lờ mờ vào lòng hang. Người không quen thuộc địa hình không thể tìm ra của hang. Vì vậy, sau khi nghĩa quân Cần Vương bị đại bại tại Bàu Sấu (An Nhơn), Mai Xuân Thưởng rút quân vào Linh Đỗng ẩn náu. Quân địch ra sức lùng xục, tìm kiếm, nhưng không thể tìm được Mai Nguyên súy. Ở Linh Đỗng có đường ra Lộc Đỗng mà cũng có đường sang Nam Trại (Đồng Vụ). Đồng Vụ và Đồng Hươu đều có đồng bào các dân tộc ít người sinh cơ, lập bản.
Dãy Sơn Triều Sơn
Các dãy núi ở Tây Sơn chạy xuống đến Nhơn Thọ, Nhơn Lộc (An Nhơn) thì chia làm hai nhánh: một nhánh chạy theo hướng đông bắc gọi là Sơn Triều Sơn, một nhánh chạy thẳng xuống giáp bờ biển Quy Nhơn. Sơn Triều Sơn chạy đến đường 19, giáp Cầu Gành thì dừng lại. Trước mặt Sơn Triều Sơn, hướng tây bắc là đồng bằng và một nhánh sông Côn; phía sau lưng, hướng đông nam có một cái đầm ở thôn Dương Hội (Tuy Phước), tục gọi là đầm Kim Ngân. Đầm thông liền với đầm Thanh Huy nằm về phía đông. Nước hai đầm nầy do con suối từ Sơn Triều Sơn chảy xuống. Phía tây nam có một con đèo chạy từ quốc lộ 19 đến Dương Hội, gọi là đèo Phú Quý. Những ngọn núi trong nhánh Sơn Triều Sơn không cao mà cũng không rậm. Gần đầm Kim Ngân có một ngọn chỉ cao 47 mét, gọi là núi Bé. Cạnh đó, ở dưới chân đèo Phú Quý có một cái hố gọi là Hố Giang. Phía tây nam đèo Phú Quý, về phía quốc lộ 19 có một hòn núi trọc tục gọi là núi Cóc. Phía tây hòn Cóc có hòn Gian (có truyền thuyết về con rít nhả ngọc) là ngọn núi cao nhất (gần 540 mét) trong dãy Sơn Triều Sơn.
Dãy Dương An-Cù Mông, ranh giới giữa Bình Định, Phú Yên
Dãy núi chạy vào vùng Vân Canh có ngọn Dương An Sơn, đỉnh cao chót vót, có nhiều danh mộc cổ thụ nổi tiếng. Đây là núi cao và đồ sộ nhất trong tỉnh Bình Định nên được tôn vinh là núi Chúa hay núi Ông. Năm 1840, vua Tự Đức ban cho Dương An Sơn cái tên mới là Phước An Sơn. Đứng trước hòn Ông, về phía tây bắc là hòn Bà Cương hay Bà Phong, tục gọi là hòn Bà, thấp hơn hòn Ông. Đối trí với hòn Bà có hòn Từ Sơn, tục gọi là núi Am, cao gần bằng hòn Bà (1.122 mét). Sườn núi dựng ngược, đá chất chồng rất khó leo lên. Trong núi có nhiều thú dữ. Đỉnh núi có nhiều hoa thơm trái ngọt, hương hoa theo gió bay khắp rừng sâu, người ta gọi đó là vườn tiên, Ba ngọn hòn Ông, hòn Bà, hòn Am đứng chung một vùng giữa nhiều núi khác trong các dãy núi nam Bình Định. Ngoài ra, còn có một hòn núi nằm trong địa phận huyện An Nhơn cũng nổi danh, đó là hòn An Tượng (cao hơn 500 mét) giống hình một con voi đang nằm, phía đông có vùng đá xanh chen lẫn cây xanh trông rất đẹp. Dương An và An Tượng là những căn cứ hiểm yếu của nghĩa quân Tây Sơn. Năm 1800, quân của Nguyễn Ánh đánh chiếm Dương An và An Tượng, nhưng liền sau đó, Trần Quang Diệu đã đánh chiếm lại và đuổi quân chúa Nguyễn ra khỏi đất Bình Định. An Tượng là nơi phát nguyên nhiều sông suối nên vùng nầy được gọi là nguồn An Tượng. Đây là nơi giao lưu hàng hóa giữa hai miền xuôi và ngược. Các vua triều Nguyễn đã lập thủ sở và đặt tại đây chức Trấn thủ Thừa biện, về sau thì đặt “mậu dịch thị trường”. Chung quanh hòn An Tượng có nhiều ngọn phù dực, trong đó có hòn Thủ Đường (580 mét) nằm ở phía tây nam, cao hơn hòn An Tượng.
Nhánh Dương An là bức trường thành ngăn chia địa phận hai tỉnh Bình Định và Phú Yên. Đèo Cù Mông mở lối giao thông nam bắc. Đèo nằm gần biển, tuy không dốc như đèo An Khê, nhưng dài và khúc khuỷ khó đi. Đây là nơi diễn ra nhiều trận chiến ác liệt giữa quân của Trần Quang Diệu và quân của Nguyễn Ánh khi thành Quy Nhơn bị Võ Tánh đánh chiếm. Từ Cù Mông trở vô thì núi đứng rời rạc, nhưng từ Cù Mông xuống biển thì núi nối tiếp nhau thành dãy. Đáng kể là hòn Sơn Chà ở Phú Tài, Tuy Phước. Núi không cao (gần 340 mét), nhưng đồ sộ. Trên đỉnh có một thung lũng rộng chừng 30 ha. Trong thung lũng có một ngôi chùa thờ Phật gọi là chùa Eo Mén. Dưới chân núi có một cái đầm gọi là đầm Bàu Cả, không lớn lắm, nhưng nước lai láng quanh năm. Phía đông Bàu Cả có một dãy núi chạy từ Vân Quang đến Phú Vinh, dưới chân núi về hướng đông nam có một cái đầm nữa tên là đầm Bá Mười. Đeo Son nằm ở địa đầu Quy Nhơn mở lối liên lạc từ quốc lộ IA vào các vùng phía nam. Phía bắc quốc lộ, dưới Cầu Đôi, phía trong hai ngọn tháp Hưng Thạnh (Tháp Đôi) có một hòn núi tên là Khổ Sơn (núi Khó, núi Khổ) đang có nguy cơ bị san bằng.
Những hòn độc sơn có danh tiếng.
Ngoài những dãy núi trùng trùng, điệp điệp như An Lão, Kim Sơn, Tây Sơn, ở Bình Định còn có những hòn núi nằm lẻ loi ở đồng bằng, nhiều ngọn không cao và ít cây cối, nhưng cũng rất nổi danh. Hòn Hương Sơn ở Tây Sơn, tục gọi là núi Thơm, nằm tựa bắc ngạn sông Côn, giữa những cánh đồng rộng. Đây là một hòn núi đât cằn cỗi, cây thưa, gai rậm, chỉ có sườn núi phía sông Côn là có cây cối sum sê. Dưới chân núi, phía cuối Kiên Thạnh đầu Trường Định có một bàu nước gọi là Bàu Um. Bàu nầy có đặc sản ốc bươu, vùng quanh bàu có xoài tượng ngon nổi tiếng sau xoài Đá Trắng của Phú Yên. Trên triền núi Hương Sơn có nhiều nhà cửa của nhân dân Kiên Thạnh. Thời phong trào Cần Vương, nghĩa quân đã xây đồn luỹ tại cái eo giữa núi gọi là thứ Hương Sơn. Cách Thứ Hương Sơn chừng nửa cây số về phía đông bắc có ba ngọn cổ tháp đứng song song trên một nổng gò cao. Trên triền núi Hương Sơn, phía đông nam thuộc địa phận Kiên Thạnh, xưa kia có miếu thờ Đức Khổng Tử gọi là Văn Chỉ. Văn Chỉ do các nhà nho Bình Khê, An Nhơn xây năm 1900 (Thành Thái thứ 12), sau đó di dời xuống xây tại nền phủ cũ. Hương Sơn là một địa danh có phong cảnh ngoạn mục và có nhiều di tích lịch sử-văn hóa nên được nhiều nhà thơ tôn vinh.
Cách Hương Sơn chừng 8-9 cây số, xiên về hướng đông bắc, đột khởi một hòn thổ sơn nằm giữa đồng rộng mênh mông, đó là hòn Trà Lan Sơn (hòn Chà Rang) ở thôn Thuận Hạnh (Tây Sơn). Hòn Chà Rang cao lớn hơn hòn Hương Sơn và có nhiều cây chà là. Trước mặt hòn Chà Rang, từ Thuận Truyền chạy ra Phù Cát có ba gò cát trắng rộng thênh thang, nổi lên muôn nghìn gò mối lớn nhỏ giống như một cuộc bài binh bố trận. Ai không thạo địa hình, đi qua đây, sẽ bị lạc vào “thạch trận Mối”.
Vùng An Nhơn có núi Kỳ Đồng cũng là căn cứ của phong trào Cần Vương Mai Xuân hưởng. Dưới chân núi Kỳ Đồng có Bàu Sấu rộng chừng ba mẫu ta, dù nắng hạn, nước trong bàu không bao giờ khô cạn, nên cổ nhân gọi núi Kỳ Đồng, Bàu Sấu là “Thanh Long Ẩm Thủy”. Trong địa phận thôn Nhạn Tháp có một hòn núi đất sỏi trơ trọi. Trên đỉnh, xưa kia có ba ngọn tháp Chàm đứng ngay hàng, hướng về thành Đồ Bàn nên núi có tên là Tam Tháp Cương. Dưới chân núi, về phía đông có chùa Nhạn Sơn. Nguyễn Huệ đã từng đặt đại bác trên Tam Tháp cương.
Nằm giữa An Nhơn và Phù Cát có hòn Mò O được mệnh danh là Long Tức Sơn (con rồng dừng lại để thở). Trên đỉnh có một hố sâu gọi là giếng trời. Tuy Phước có hòn Kỳ Sơn (gần 190 mét) cũng nổi danh. Phía bắc hòn Kỳ Sơn có hòn Phụng Sơn và hòn Xuân Sơn. Phía nam hòn Kỳ Sơn có hòn Mai Sơn ngó xuống thôn Hoàng Mai. Leo lên núi Mai Sơn chừng vài chục bước thì thấy có một cái hầm rộng gọi là Quy Khánh (hầm Rùa). Thời kháng chiến chống Pháp, nhân dân địa phương vào hầm nầy để tránh nạn tàu bay khủng bố. Phía nam Mai Sơn có rừng mai vàng rất đẹp. Tại Mai Sơn có phần mộ của nhà soạn tuồng nổi tiếng là Đào Tấn. Phía nam hòn Kỳ Sơn có hòn Hàm Long, nằm ở thôn Thuận Nghi, còn có tên là Úc Sơn (núi nằm gần cầu Trường Úc bắt qua sông Hà Thanh). Hàm Long là nơi đã diễn ra các trận chiến ác liệt giữa nghĩa quân Tây Sơn và quân Nguyễn Ánh (Kỷ Tỵ-1799), giữa nghĩa quân Cần Vương do Đào Doãn Địch chỉ huy và quân xâm lược Pháp (Ất Dậu-1885). Phía tây hòn Hàm Long, cách chừng 3-4 cây số có hòn Thủ Lộ Sơn, tục gọi là hòn Ông Vồ ở Diêu Trì. Núi không cao, nằm giữa cánh đồng, trên núi có nhiều đá xanh rất mịn dùng để làm cối xay. Phía đông bắc, dưới chân núi, có một vực nước sâu gọi là vực Ông Đô thông với vực Thanh Huy ở phía tây núi. Thời kháng chiến chống Pháp, nhân dân địa phương đã đào một con mương dài chảy từ vực Ông Đô xuống cầu Trường Úc để tưới ruộng.
Trong vùng Phù Cát, Phù Mỹ cũng có những hòn độc sơn có tên tuổi. Hòn Se Sẻ ở Phú Hội, giáp ranh Phù Cát-Phù Mỹ, nổi tiếng nhờ các nghề thủ công truyền thống như đồ đan, đồ gốm Chợ Gồm, võng Cảnh An dệt bằng sợi thơm tàu.Từ Chợ Gồm xuống Đề Gi có hòn Lang Sơn. Đây là một hòn núi đá nho nhỏ nằm phía đông cửa biển Đề Gi, trên bờ phía đông đầm Đạm Thủy (đầm nước ngọt). Núi cao khoảng 170 mét đứng giữa cảnh trời rộng, biển khơi, trông rất nên thơ. Các nhà thơ Đông Hồ, Mộng Tuyết đã từng đến chiêm ngưỡng hòn Lang Sơn: “Đề Gi có ngọn Lang Sơn, Có đầm Đạm Thuỷ nước dờn dợn xanh. Có non, có nước, có tình, Có trăng, có gió, có mình ở trong...”(Mộng Tuyết). Tại thôn Tân Phụng (Phù Mỹ) có hòn Vỉ Rồng nằm sát biển, đối xứng với hòn Lang Sơn. Giữa hòn Vỉ Rồng và hòn Lang Sơn có một động cát rộng đến hai cây số, dài hơn mười cây số, chạy từ Tân Phụng dọc theo biển đến Hưng Lạc, rồi lại chạy thọc ra biển đến Vĩnh Lợi, dưới chân hòn Lang Sơn. Cát trong động mịn và trắng phau phau. Giữa động, cát nổi lên thành một cái nổng cao, trên nổng có vô số đá son nên nổng có tên là Hòn Son. Động cát được trồng phi lao chắn gío bạt ngàn như rừng, mùa hạ vẫn mát mẻ.