S
Sông suối
Do cấu tạo địa chất phức tạp và địa hình chia cắt mạnh, nên mạng lưới sông ngòi tỉnh Bình Định hình thành tương đối dày và phân bố không đều. Có bốn con sông chính ảnh hưởng đến kinh tế và đời sống nhân dân là sông Côn, sông Hà Thanh, sông La Tinh và sông Lại. Ngoài ra, còn nhiều con sông nhỏ và nhiều con suối cũng có vai trò nhất định đối với các địa phương.
Sông An Tượng
Sông An Tượng phát nguyên từ hòn Bà, qua vùng núi An Tượng, hợp cùng sông cửa Tiền (sông Tân An) chảy xuống đầm Thị Nại. Sông nằm trọn trong địa phận huyện Tuy Phước. Sông ngắn, lưu lượng nhỏ, nhưng nổi danh nhờ có nguồn An Tượng, nơi giao dịch của thương nhân người kinh và người thượng xưa kia.
Sông Côn
Sông Côn ngày xưa gọi là sông Tuy Viễn. Triều Khải Định (1916-1925), sau khi huyện Tuy Viễn bị bãi bỏ để lấy đất lập phủ An Nhơn thì sông mang tên là Côn Giang, còn gọi là sông Tam Huyện.
Sông Côn phát nguyên từ vùng rừng núi An Lão, giáp giới Quảng Ngãi, Kon Tum, có độ cao từ 600-700m, chảy theo hướng tây bắc, đông nam, quanh co trong dãy Trường Sơn, vượt qua nhiều ghềnh, thác, kéo dài gần 50 cây số thì đến Định Quang (Bình Tường, Tây Sơn), tiếp nhận thêm nước từ nhiều dòng suối, đến Thượng Giang thì gặp suối Cỏ từ bắc chảy vào. Đoạn từ Định Quang đến Thượng Giang gọi là sông Hà Giao (còn gọi là Hà Riêu). Khúc sông nầy hẹp, lòng sông có nhiều hòn đá tảng dựng đứng nên thuyền bè lên xuống rất khó khăn. Từ giao thủy suối Cỏ, dòng sông chảy đến Tả Giang thì gặp suối Ba La từ đồng Tre ở phía nam chảy ra. Từ giao thủy Ba La, dòng sông mở rộng, chảy độ 9-10 cây số thì đến địa phận Phú Phong (Tây Sơn). Từ Tả Giang, Hữu Giang trở xuống, sông mới chính thức được gọi là sông Côn. Trên khúc sông từ Tả Giang đến Trinh Tường, trong lòng sông, đây đó nổi lên những đống đá đen láng trông rất thanh kỳ, có hòn đá Tượng cao lớn nằm trong suối Ba La gọi là Đá Khổng Lồ.
Đến địa đầu Phú Phong, sông Côn tiếp nước sông Đá Hàng và nước của nhiều suối khác. Sông Đá Hàng dài chỉ độ 10 cây số do hai nguồn là suối đồng Hươu từ tây bắc chảy xuống gặp suối đồng Le từ phía tây chảy xuống. Lòng sông Đá Hàng, đá mọc lởm chởm, nhiều ghềnh thác khó đi. Thượng lưu sông Đá Hàng có một thắng cảnh gọi là Hầm Hô. Đó là một con suối từ đồng Gian đến đồng Hươu có nhiều ghềnh thác, nước chảy đổ xuống một hầm đá rộng thênh thang. Hai nhánh sông, một nhánh lớn từ Cây Muồng chảy thẳng xuống đông nam, chia đôi hai thôn Hạnh Lâm và Chân Tự và nhánh nhỏ từ Đá Hàng chảy thẳng ra đông bắc gặp nhánh lớn là do Nguyễn Nhạc cải tạo dòng sông mà thành. Hoành Sơn, nơi có phần mộ của cụ thân sinh Tây Sơn tam kiệt, ngó ngay xuống chỗ giao thủy của hai nhánh sông nói trên, phong cảnh rất thanh kỳ.
Từ địa đầu Phú Phong trở xuống, lòng sông mở rộng, nước sông Côn trở nên lai láng. Khúc sông rộng nhất, sâu nhất và đẹp nhất là từ Phú Phong đến An Thái. Xuống khỏi An Thái chừng hơn nửa cây số, sông Côn chia làm hai nhánh. Nhánh thứ nhất ở phía nam chảy đến Phụng Ngọc thì tách làm đôi, một chảy qua An Nhơn, Tuy Phước đến đầm Thị Nại; một chảy xuống cửa Tiền thành Bình Định, tiếp nhận thêm nước sông An Tượng từ tây nam chảy ra, lưu lượng gia tăng, qua cầu Tân An rồi đổ ra đầm Thị Nại. Nhánh nầy xưa gọi là sông Cửa Tiền, nay gọi là sông Tân An. Nhánh thứ hai nằm phía bắc, chảy một đoạn rồi cũng chia thành hai nhánh nhỏ: một nhánh gọi là sông Thạch Yển (còn gọi là sông Đập Đá), chảy quanh co rồi dừng lại ở đập Lý Nhơn; một nhánh nữa là sông La Vỹ (nay gọi là sông Gò Chàm) do vua Thái Đức cho đào, chảy ra Gò Găng, xuống đập Lý Nhơn hợp cùng sông Thạch Yển. Hai sông Đập Đá và Gò Chàm tạo thành một vòng đai bao quanh vùng Thập Tháp, Đồ Bàn, Vân Sơn, Nhạn Tháp, Đập Đá. (Sau khi cho đào xong sông La Vỹ, lụt to làm sạt lở bờ sông phía đông, phía thành Hoàng Đế, vua Thái Đức liền cho đào một con đê hình quai vạc, gọi là Đỉnh Nhĩ Đê để giữ nước).
Sông Côn là con sông dài nhất ở tỉnh Bình Định,171 cây số; diện tích lưu vực khoảng 2.594 km2; độ dốc bình quân lưu vực khoảng 0,2.
Lưu vực sông Côn bao gồm phần lớn diện tích các huyện An Lão, Vĩnh Thạnh, Tây Sơn, An Nhơn, Tuy Phước và nam Phù Cát. Trên dòng sông Côn có nhiều đập như Phương Danh, Bảy Yển (phân nước cho 7 đập nhỏ), Văn Phong. Gần đập Văn Phong có một bãi cát rộng thênh thang gọi là bãi Cây Muồng là nơi Mai nguyên soái làm lễ tế cờ trước khi xuất nghĩa quân đánh Pháp.
Nước sông Côn trong, nhưng lại có nhiều cá, nổi tiếng là cá chép, tên chữ là lý ngư.
Sông Hà Thanh
Sông Hà Thanh bắt nguồn từ vùng núi Vân Canh ở độ cao 500m. Sông có chiều dài khoảng 58 km, trong đó 30 km chảy qua vùng rừng núi. Độ cao trung bình của lưu vực là 170m; độ dốc trung bình của lưu vực khoảng 0,18.
Sông Hà Thanh do nhiều nguồn tạo thành. Hai nguồn phát xuất từ vùng núi ở phía nam hòn Phước Sơn (hòn Ông), tục gọi là suối Rào và suối Cây Sung. Một nguồn nữa từ Mục Thịnh chảy ra, tục gọi là suối Sơn Thành. Ba nguồn nầy họp nhau tại Vân Canh gọi là sông Hà Thanh.
Từ Vân Canh đến Vân Hội, tục gọi là xóm Cây Da (Tuy Phước), sông tiếp nhận thêm nhiều khe, suối, mực nước càng lên cao, lòng sông càng mở rộng. Sau khi xuống đến hạ lưu, tại Vân Hội, sông Hà Thanh chia làm hai nhánh: một nhánh gọi là sông Tóc, có sông Tham Đô đổ vào, chảy theo hướng bắc, xuống Trung Tín, Thuận Nghi và đổ xuống đầm Thị Nại. Một nhánh nữa gọi là sông Ngang, chảy theo hướng đông, tiếp nhận nước của đầm Ngọc Châu (bàu Cả) gần dưới chân núi Sơn Chà và nước đầm Thanh Cẩn gần đèo Son, họp nhau lại rồi chảy ra biển. Trên nhánh sông Tóc có cầu Trường Úc; trên nhánh sông Ngang có cầu Chợ Dinh (tức cầu Sông Ngang) và cầu Đôi.
Sông Hà Thanh chảy theo hướng tây nam-đông bắc, qua hai huyện Vân Canh, Tuy Phước và thành phố Quy Nhơn. Lòng sông hẹp, lưu lượng yếu, mùa nắng thường khô cạn.
Sông La Tinh
Sông La Tinh còn có tên là La Xiêm, nhân dân địa phương thường gọi là sông Phù Ly, làm ranh giới giữa hai huyện Phù Mỹ và Phù Cát.
Sông phát nguyên từ vùng Hội Sơn (Phù Mỹ) có độ cao trung bình là 150m. Hội Sơn là nơi hội tụ các ngọn núi trong vùng. Những con suối phát nguyên từ vùng núi nầy họp thành suối Cả. Suối Cả chảy xuống An Điềm, đến Vạn Ninh thì tiếp thêm nước của nhiều con suối khác chảy vào, trong đó có một con suối lớn nhất phát nguyên từ Hội Phú, Hội Khánh ở phía bắc chảy vào, dài độ 11-12 cây số. Nhờ vậy mà lòng sông mở rộng, lưu lượng lên cao. Từ Vạn Ninh, sông chia làm hai nhánh : nhánh phía nam gọi là sông Cái, nhánh phía bắc gọi là sông Con. Sông Cái chảy xuống Phú Hội, An Mỹ rồi đổ vào đầm Đạm Thủy (đầm nước ngọt Đề Gi). Sông Con chảy xuống Kiên Trinh, An Lương, An Xuyên và cũng đổ vào đầm Đạm Thủy. Hai thôn Kiên Trinh và Phú Hội đều nằm trên ven bờ hai nhánh sông nói trên. Kiên Trinh nằm ở hữu ngạn sông Con (nhánh phía bắc); Phú Hội nằm ở tả ngạn sông Cái (nhánh phía nam), đối diện nhau. Kiên Trinh có đập Bờ Xe, Phú Hội có đập Ông Tờ. Trên sông La Tinh, tại thôn An Xuyên (xã Mỹ Chánh, huyện Phù Mỹ) có lăng thờ Mãn Xà Vương nằm bên bờ sông. Hai sông nhánh Đập Bao và Đập Sung ở thượng lưu nhập thành sông Bình Trị.
Sông La Tinh ngắn, chiều dài chỉ khoảng 54 km, 2/3 chiều dài chảy qua vùng rừng núi và đồi trọc. Diện tích lưu vực khoảng 719 km2; độ dốc bình quân lưu vực khoảng 0,15. Lưu vực sông La Tinh chảy qua hai huyện Phù Cát, Phù Mỹ. Lòng sông hẹp, lưu lượng yến nên vào mùa nắng nước thường khô cạn.
Sông Lại
Sông Lại là con sông lớn thứ hai của tỉnh Bình Định, dài 72 cây số. Sông bắt nguồn từ vùng núi phía tây huyện An Lão có độ cao từ 400-825m; diện tích toàn lưu vực khoảng 1.269 km2; độ cao trung bình của lưu vực là 300 m; độ dốc bình quân của lưu vực chưa đến 0,25. Sông Lại chảy qua các huyện An Lão, Hoài Ân, Hoài Nhơn theo hướng tây bắc-đông nam đổ ra cửa An Dũ (Hoài Nhơn). Sông do hai nguồn An Lão và Kim Sơn hợp thành.
Sông An Lão do hai nhánh hợp thành. Một nhánh từ Ba Tơ (Quảng Ngãi) chảy vào gọi là nước Dinh, còn gọi là nước Trong. Một nhánh từ phía tây chảy xuống gọi là nước Tép, còn gọi là nước Trắng. Mỗi nhánh dài độ vài chục cây số. Hai nhánh hợp tại nước Giao thành sông An Lão. Nhờ có nhiều phụ lưu đổ vào nên nước sông An Lão rất dồi dào. Sông An Lão chảy đến Phú Văn thì gặp sông Kim Sơn chảy xuống. Sông Kim Sơn cũng có hai nhánh. Một nhánh từ vùng An Lão chảy vào gọi là nước Lương, dài chừng 24-25 cây số. Một nhánh từ phía nam chảy ra, dài hơn 10 cây số, gọi là nước Lăng hay nước Bông. Hai nhánh nầy họp tại Xuân Sơn thành sông Kim Sơn, chảy đến Phú Văn thì gặp sông An Lão tạo thành Lại Giang. Từ giao thủy Phú Văn, sông chảy xuống cầu Ông Sơn, chạy quanh co đến Định Bình thì quay ra bắc đổ vào cửa An Dũ. Cách Bồng Sơn độ một cây số về phía đông, có một nhánh sông đào dài chừng 9-10 cây số, song song với quốc lộ IA, chảy đến Tài Lương thì dứt. Sông Lại chảy gần đến biển thì tách ra một nhánh nhỏ chảy dưới chân hòn Hương Sơn rồi chảy trở vào sông cái. Vũng nầy gọi là Bàu Tượng.
Lưu vực sông Lại bao gồm phần lớn diện tích hai huyện An Lão và Hoài Ân, phần giữa huyện Hoài Nhơn và phần nhỏ phía bắc huyện Phù Mỹ. Trên dòng sông Lại, xưa kia, cứ một đoạn vài ba trăm mét thì có một bờ cừ ngăn nước để xe nước đặt ở hai bên bờ sông đưa nước vào ruộng trong mùa nắng. Đến muà lụt lội, xe nước dỡ cất, bờ cừ bị nước cuốn trôi. Cảnh xưa đầy thi vị là các guồng xe nước quay rào rào suốt ngày đêm, bọt nước tung trắng xóa lên hai bên bờ sông, nay không còn nữa.
Sông Lại nổi tiếng về cá bống cát, tên chữ là sa ngư. Cá bống nhiều mỡ, thịt trắng và thơm, kho với tiêu thì ngon tuyệt. Cá bống lớn con và ngon nhất là ở hai nhánh sông Kim Sơn và An Lão.
Suối nước nóng Hội Vân
Suối nước nóng Hội Vân (Phù Cát), phát nguyên từ vùng núi thấp ở phía bắc, đến Hội Vân, nước chảy vào một cái vũng lòng chảo, nước nóng từ đáy chảo trào lên. Nước suối ở ngoài chảy vào lòng chảo hòa cùng nước nóng rồi băng gò chảy ra sông Quai Vạc (sông Gò Găng).